NHỊN ĂN CHỮA BỆNH, NHỮNG ĐIỀU CẦN
BIẾT
Nhịn
ăn để chữa bệnh là một vấn đề đã được đề cập và gây tranh luận từ
khá lâu mà chưa có hối kết, nhất là sau ca đột tử của một nữ sinh 18 tuổi ở
Hà Nội (chưa xác định rõ nguyên nhân nhưng được biết nạn nhân cũng đang áp dụng
chế độ nhịn ăn 10 ngày trước khi chết) và gần đây là trường hợp của một
đại gia cà phê gây xôn xao dư luận. Vậy, thực chất của vấn đề này như
thế nào ? Dưới đây, xin được đưa ra một số vấn đề để độc giả tham
khảo.
1. Nhịn ăn chữa bệnh có từ
bao giờ ?
Nhịn ăn
là một trong những cách chữa bệnh cổ xưa nhất của tự nhiên. Ở Phương
Tây, các nhà hiền triết và truyền giáo cổ xưa thường nhịn ăn không
phải chỉ để khỏe mạnh, phòng chống bệnh tật mà còn để nâng cao tinh
thần và linh hồn bời vì như họ nói : “No bụng thì không thích suy
nghĩ”. Chúa Jêsu đã nhịn ăn 40 ngày, trong thời gian đó ông đã vượt
qua được mọi cám dỗ và chuẩn bị bản thân cho việc lớn và sự đau
đớn mà ông sẽ phải chịu đựng. Các nhà triết học Hy Lạp vĩ đại như
Socrates, Plato, Pytago…thường nhịn đói trước khí viết các tác phẩm
về triết học hoặc trước khi phải trải qua những kỳ kiểm tra đặc
biệt vì họ biết rằng nhịn đói sẽ kích thích khả năng trí tuệ. Hyppocrate,
ông tổ của ngành y người Hy Lạp đã từng nói : “Trong mỗi người đều
có một bác sĩ, chỉ cần giúp “anh ta” làm công việc của mình. Khi
bạn ốm mà bạn vẫn ăn là bạn tự nuôi dưỡng bệnh của bạn”. Ở Phương Đông, y học cổ truyền đã bàn
luận và sử dụng phương pháp nhịn ăn với những tên gọi là “đoạn
thực”, “đoạn cốc”, “tịch cốc” để phòng chống bệnh tật, bảo vệ và
nâng cao sức khỏe dưới hình thức đơn độc hoặc phối hợp với các biện
pháp không dùng thuốc khác như châm cứu, xoa bóp, tập luyện khí công
dưỡng sinh, yoga, thiền…
2. Nhịn ăn
có lợi ích gì ?
Nhiều chuyên
gia cho rằng, nhịn ăn là phương pháp giúp cơ thể nghỉ ngơi và chỉ tập
trung cho việc thanh lọc thất độc tích tụ trong cơ thể. Nhịn ăn đúng
cách có những lợi ích sau đây :
- Giúp cho toàn bộ các cơ
quan, tạng phủ trong cơ thể được nghỉ ngơi và phục hồ sức khỏe để
làm việc có hiệu quả hơn, đặc biệt là hệ tiêu hóa và tim mạch.
- Làm tăng khả năng bài
tiết chất độc tích tụ trong cơ thể, điều mà người ta gọi là tình
trạng “nhiễm độc nội sinh” thông qua việc làm tan các chất độc bám ở
tất cả các cơ quan và các mô, nhờ đó mà thực hiện hữu hiệu quá
trình thanh lọc cơ thể một cách tự nhiên.
- Giúp tái lập sự hoạt
động bình thường và cân bằng của các tổ chức, cơ quan, làm trẻ hóa
toàn bộ cơ thể, giúp làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi
thọ.
- Giúp duy trì được năng
lượng và hướng nó vào các hoạt động của tinh thần và trí tuệ cao
siêu như thiền định, làm đầu óc nhẹ nhàng, sáng sủa, cảm giác sắc
bén, tăng khả năng ghi nhớ và tập trung .
- Góp phần đốt cháy và
loại bỏ những chất liệu vô ích, chất béo dư thừa, làm giảm thể
trọng ở những người thừa cân và béo phì.
- Giúp phục hồi độ rộng
bình thường của dạ dày, làm mất thói quen phàm ăn bất bình thường,
giảm trạng thái thèm rượu và thuốc lá.
- Việc nhịn ăn định kỳ
giúp làn da trở nêm trẻ trung và trong sạch, tăng cường sức đề kháng
chống lại mọi sự nhiễm trùng, giúp cơ thể phòng chống nhiều loại
bệnh tật.
- Như một loại :thuốc an
thần của tạo hóa” nhờ tác động thư giãn hệ thần kinh và làm tâm
hồn trở nên thanh thản, giúp phòng chống mất ngủ.
- Giúp cho toàn bộ cơ thể,
đặc biệt là hệ tiêu hóa được nghỉ ngơi và làm sạch. Nhịn ăn đúng
cách và thường xuyên làm cho ta cảm thấy tăng cường sức khỏe, khí
lực, trí lực, năng lượng và sự minh mẫn.
3. Những
quan niệm nào chưa đúng về nhịn ăn chữa bệnh ?
Trên thực
tế, hiện nay vẫn tồn tại hai quan niệm chưa đúng về phương pháp nhịn
ăn chữa bệnh và nâng cao sức khỏe. Quan niệm thứ nhất coi đây là một
cách thức chữa bệnh không khoa học, có người cho là “phản khoa học”
vì họ cho rằng cơ thể mỗi ngày nhất thiết phải được cung cấp một
lượng đồ ăn thức uống nhất định theo nguyên tắc đầy đủ, cân bằng và
hợp lý để đảm bảo đủ năng lượng tối thiểu cho cơ thể hoạt động
bình thường, những người nhịn ăn thường xuyên, đặc biệt là nhịn ăn
quá dài sẽ khiến cơ thể suy mòn, nguồn năng
lượng sẽ cạn kiệt, các chất dinh dưỡng sẽ thiếu hụt, ảnh hưởng không tốt tới
hàng loạt các chức phận bên trong cơ thể đặc biệt là não. tạo nguy cơ
gây nên nhiều bệnh lý thậm chí có thể gây tử vong, ví như tình trạng
hôn mê do tụt đường huyết. Từ đó, họ cho rằng chỉ nên ăn kiêng chứ
không nên nhịn ăn. Quan niệm thứ hai coi nhịn ăn là phương thuốc chữa
bệnh tự nhiên và vạn năng, thậm chí có thể chữa được cả bệnh ung
thư. Họ cho rằng bệnh tật là do sự tích lũy chất độc trong cơ thể do
ăn uống quá nhiều cả về lượng và chất. Có một chuyên gia dinh dưỡng
nói : “Không một loài thú nào bụng lại đầy thức ăn không tiêu bị lên
men, thối rữa do ăn quá nhiều thức ăn không tự nhiên như cái gọi là
“con người văn minh”. Theo tự nhiên, mỗi con vật đều nhịn đói theo bản
năng khi bị ốm, nhưng con người chúng ta lại đi lạc với tự nhiên quá
xa, đáng lẽ khi thiếu sự ngon miệng vì ốm, cần nhịn ăn để thanh lọc
cơ thể thì chúng ta lại nhồi nhét quá nhiều thức ăn để “tăng sức
khỏe của mình”. Thực chất, đây là hai quan niệm đều mang tính thái
quá. Điều quan trọng không phải là phủ định hay khẳng định một cách
cực đoan phương pháp nhịn ăn chữa bệnh mà rất cần phải có những công
trình nghiên cứu khoa học cả trên lý thuyết lẫn thực hành, cả trên
thực nghiệm lẫn lâm sàng để làm sáng tỏ vấn đề này.
4. Khi thực
hành nhịn ăn chữa bệnh cần chú ý những gì ?
Hiện nay,
trên thực tế không ít người vẫn thực hành nhịn ăn để phòng chống
bệnh tật theo nhiều cách khác nhau. Ví như, nhịn ăn ngắn ngày khoảng
1 tuần, nhịn ăn dài ngày có khi kéo dài 30-40 ngày, nhịn ăn vào ngày
mồng 1 và 15 âm lịch, nhịn ăn tuyệt đối không ăn một tí gì kể cả
nước, nhịn ăn nhưng vẫn uống nước lọc, nhịn ăn kết hợp với thực
hành Thiền…Không thể phủ nhận là đã có những trường hơp dùng cách
nhịn ăn chữa khỏi một số bệnh, nhưng cũng đã xuất hiện nhưng tai
biến không đáng có khi thực hành liệu pháp này. Vậy nên, trong khi
nhịn ăn liệu pháp được khuyến cáo là chưa nên khuyến khích thì việc
thực hành cần chú ý những điều sau đây :
- Cần được khám xét,
đánh giá và chẩn đoán chính xác tình trạng sức khỏe và bệnh tật,
nên hỏi ý kiến bác sĩ hoặc các chuyên gia về dinh dưỡng xem có cần
nhịn ăn hay không, nếu có cần và có thể nhịn ăn hay không.
- Không áp dụng nhịn ăn ở
những người suy kiệt, suy dinh dưỡng, thiếu máu, ung thư tiến triển,
lao, AIDS, người mắc bệnh tiểu đường típ I (nhóm phụ thuộc insulin),
bệnh gan, tim, thận nặng, hạ đường huyết, nhừng trường hợp măc bệnh
cấp tính…Không được áp dụng cho trẻ em, phụ nữ có thai và cho con
bú.
- Nên thực hành nhịn ăn
một cách tăng dần, tránh đột ngột bất ngờ. Lúc đầu có thể chỉ ăn
hoa quả và uống sữa, sau đó chỉ cần hoa quả và nước uống, sau đó
chỉ nước và cuối cùng là không dùng gì cả. Người ốm hoặc yếu không
thể nhịn ăn được thì có thể thực hiện nhịn từ bữa trưa cho đến tận
sáng hôm sau hoặc có thể uống nước hoa quả, sữa hoặc súp rau xanh.
- Chú ý lắng nghe cơ thể
mình, nếu thấy bất cứ một dấu hiệu nặng nề nào thì phải ngừng
nhịn ăn và tiến hành khám bệnh ở các cơ sở y tế có đủ tư cách
pháp nhân.
- Khi ngừng nhịn ăn chú ý
ăn lại từ từ thoe nguyên tắc từ ít đến nhiều, từ lỏng đế đặ, từ
dễ tiêu đến khó tiêu trong một thời gian nhất định theo hướng dẫn của
các thầy thuốc và chuyên gia dinh dưỡng.
- Nên thực hiện theo nguyên
tắc “tam nhân chế nghi” của y học cổ truyền là : nhân nhân chế nghi
(tùy người mà dùng), nhân địa chế nghi (tùy nơi mà dùng) và nhân
thời chế nghi (tùy lúc mà dùng)
ThS
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét