GIÁ TRỊ THỰC DỤNG CỦA QUY KINH DƯỢC VẬT
Lý luận
quy kinh dược vật đã gắn chặt học thuyết kinh lạc với thuốc y học cổ truyền,
góp phần phát triển cơ sở lý luận của dược vật và kinh lạc, mở rộng phạm vi ứng
dụng của thuốc và kinh lạc trên lâm sàng, thể hiện quy luật khách quan về tác
dụng mang tính chọn lọc của dược vật đối với kinh lạc và tạng phủ. Đúng như
sách Y học nguyên lưu luận đã viết : “Trị bệnh giả, tất tiên phân kinh
lạc, tạng phủ chi sở tại...nhiên hậu tuyển hà kinh, hà tạng đối bệnh chi dược
nhi trị chi, tự nhiên kiến hiệu hĩ...bất tri kinh lạc nhi dụng dược, tất vô
tiệp hiệu”.
2.1
Phát triển cơ sở lý luận dược vật học
Trước
khi có lý luận quy kinh, dược vật chỉ phân tứ khí, ngũ vị. Tứ khí chỉ có thể
biểu thị đại thể thuộc tính âm dương của dược vật, ngũ vị chỉ có thể biểu thị
đại thể công dụng và phân biệt vị khác nhau của dược vật, chứ không thể nói rõ
quan hệ giữa tính năng và các tạng phủ, kinh lạc. Ví như, hoàng cầm, hoàng
liên, tri mẫu, mộc thông...đều là những dược vật khổ hàn, có công năng thanh
nhiệt tả hoả, nhưng để biết hoàng cầm thanh hoả ở phế và đại tràng, hoàng liên
thanh hoả ở tâm và vị, tri mẫu tả hoả ở phế và thận, mộc thông tả hoả ở tâm và
tiểu trường, nếu chỉ dùng lý luận tứ khí, ngũ vị thì không thể giải quyết được
vấn đề mà phải dùng đến lý luận quy kinh dược vật.
2.2
Chỉ đạo bào chế dược vật
Bào chế
thuốc là một trong những nội dung trọng yếu của dược vật học cổ truyền. Lý luận
quy kinh dược vật cũng góp phần chỉ đạo và nâng cao hiệu quả của công tác bào
chế. Ví như, hương phụ quy nhập kinh can, để nâng cao hiệu quả sơ can lý khí
nên sao với dấm ; cam thảo quy nhập kinh tỳ, để nâng cao hiệu quả kiện tỳ, bổ
trung ích khí nên sao với mật ; đỗ trọng, trạch tả và hoàng bá quy nhập kinh
thận, để nâng cao hiệu quả trị liệu nên sao với muối...
2.3
Căn cứ để lựa chọn dược vật trong trị liệu
Vì dược
vật tác động vào tạng phủ và kinh lạc có tính chọn lọc nên đó cũng là căn cứ để
nâng cao hiệu quả trị liệu của dược vật. Ví như, bạch chỉ, khương hoạt, sài hồ và
ngô thù du đều có tác dụng trị liệu đầu thống, nhưng bạch chỉ quy nhập kinh
dương minh nên đầu thống dương minh nên chọn bạch chỉ ; khương hoạt quy nhập
kinh thái dương nên đầu thông thái dương nên chọn khương hoạt ; sài hồ quy nhập
kinh thiếu dương nên đầu thông thiếu dương nên chọn sài hồ ; ngô thù du quy
nhập kinh quyết âm nên đầu thống quyết âm nên chọn ngô thù du. Lại như, thuốc
hàn lương đều có tác dụng thanh nhiệt, nhưng do các vị thuốc quy kinh khác nhau
nên khả năng thanh phế nhiệt, thanh vị nhiệt, thanh tâm nhiệt, thanh can
nhiệt...cũng không giống nhau. Thạch cao quy nhập hai kinh phế và vị nên có sở
trường thanh phế và vị nhiệt ; liên tử quy nhập kinh tâm nên có sở trường thanh
tâm nhiệt ; long đởm thảo quy nhập kinh can nên có sở trường thanh can
nhiệt...Trên thực tế lâm sàng, có thể vận dụng nguyên tắc đồng bệnh dị trị hoặc
dị bệnh đồng trị nhưng khi thực hành cũng không thể bỏ qua lý luận quy kinh
dược vật. Ví như, trong đồng bệnh dị trị, với chứng suyễn thuộc phế thực thì
phải chọn những vị thuốc quy nhập kinh phế như ma hoàng, hạnh nhân...để tuyên
phế, giáng khí, bình suyễn ; nếu thuộc thận hư thì phải chọn những vị thuốc quy
nhập kinh thận như cáp giới, đông trùng hạ thảo...để bổ thận, nạp khí, bình
suyễn. Với bệnh thủy thũng, nếu vì tỳ dương bất túc thì phải chọn bạch truật
quy nạp kinh tỳ để kiện vận tỳ dương ; nếu vì nhiệt kết bàng quang, khí hóa bất
lợi thì phải chọn trư linh quy nhập kinh bàng quang để thanh nhiệt lợi thấp ;
nếu vì phế nhiệt ủng trệ, thủy đạo bất thông thì phải chọn thông thảo quy nhập
kinh phế để dẫn nhiệt hạ hành. Trong dị bệnh đồng trị, với chứng thoát giang do
cửu tả cửu lỵ, âm đĩnh do khí hư hạ hãm, di niệu do trung khí bất túc, băng
huyết do tỳ bất thống huyết...đều phải chọn những vị thuốc quy nhập tỳ kinh như
nhân sâm, hoàng kỳ, bạch linh, bạch truật, biển đậu, đại táo, thăng ma...để bổ
trung ích khí, thăng dương cử hãm.
2.4
Chỉ đạo việc cấu tạo phương tễ
Phương
tễ do các vị thuốc hợp thành, là biểu hiện cụ thể của phép biện chứng dụng
dược. Mỗi bệnh chứng của kinh lạc, tạng phủ đều phải có chủ phương, ví như Quế
chi thang trong Thương hàn Thái dương bệnh, Lý trung thang trong Thái âm bệnh,
Tứ nghịch tán trong phép sơ can lý khí, Lục vị địa hoàng hoàn trong phép tư âm
bổ thận...Mỗi phương tễ lại có quân, thần, tá và sứ, trong đó quân dược phải có
tác dụng sở tại, hay nói cách khác là phải quy nhập vào kinh lạc tạng phủ bị
bệnh. Ví như, ma hoàng trong Ma hoàng thang, quế chi trong Quế chi thang đều
quy nhập kinh phế và bàng quang, là chủ dược giải biểu. Lại như, Tả kim hoàn do
hoàng liên và ngô thù du hợp thành, hoàng liên khổ hàn, ngô thù tân ôn, dược
tính của hai vị bất đồng nhưng vì hoàng liên quy nhập hai kinh tâm và vị mà tả
hỏa, giáng nghịch chỉ ẩu, ngô thù quy nhập hai kinh can và tỳ mà tán kết, hạ khí
giáng nghịch nên hai vị phối hợp với nhau mà đạt hiệu quả tân khai khổ giáng,
sơ can hòa vị rất tốt trong trị liệu chứng can khí uất kết, hoành phạm tỳ vị.
Như vậy, nếu từ phương diện dược tính mà xét thì rất khó lý giải, nhưng vận
dụng quy kinh dược vật để phân tích thì mọi việc trở nên rõ ràng.
Trong
cấu trúc phương tễ thường có những vị thuốc có tác dụng dẫn các vị thuốc khác
đến vị trí bị bệnh (dẫn kinh phục sứ), được gọi là “sứ dược”. Nếu chữa bệnh ở
phần trên cơ thể thì trong đơn kê phải có vị thuốc có tác dụng dẫn thuốc thượng
hành. Ví như, khương hoạt quy nhập kinh thái dương, bạch chỉ quy nhập kinh
dương minh, sài hồ quy nhập kinh thiếu dương...Bởi vậy, khi lập phương, các “sứ
dược”, hay còn gọi là “dẫn kinh dược”, “hướng đạo dược” cũng phải là những vị
thuốc được lựa chọn đầu tiên. Ví như, trong Thương hàn luận, Trương
Trọng Cảnh rất thích dùng ma hoàng, thông bạch làm thuốc dẫn trong các phương
tễ tân ôn giải biểu, và đó cũng là những chủ dược và vị thuốc được chọn lựa
trước tiên. Về vấn đề này, Lý Đông Viên cũng có những kinh nghiệm rất quý báu.
Ví như,
với thái dương kinh chứng, trên lấy khương hoạt làm chủ, dưới dùng hoàng bá ;
với dương minh kinh chứng, trên lấy bạch chỉ, thăng ma làm chủ, dưới dùng thạch
cao ; với thiếu dương kinh chứng, trên lấy sài hồ làm chủ, dưới dùng thanh bì ;
với thái âm kinh chứng, trên lấy cát cánh làm chủ, dưới dùng bạch thược ; với
thiếu âm kinh chứng, trên lấy độc hoạt làm chủ, dưới dùng tri mẫu ; với quyết
âm kinh chứng, trên lấy sài hồ hoặc xuyên khung làm chủ, dưới dùng thanh bì
hoặc ngô thù du. Trong Thang dịch bản thảo, Lý Đông Viên cũng đã ghi lại
nhiều kinh nghiệm dùng thuốc dẫn. Ví như, đau đầu trước hết phải dùng xuyên
khung, nếu không đỡ thì thái dương dùng mạn kinh tử, dương minh dùng bạch chỉ,
thiếu dương dùng sài hồ, thái âm dùng thương truật, thiếu âm dùng tế tân, quyết
âm dùng ngô thù du. Trong Thanh vị tán trị liệu chảy máu chân răng, Ông lấy
hoàng liên, sinh địa, đan bì để thanh vị nhiệt, lấy thăng ma làm dẫn kinh dược.
Trong Phổ tế tiêu độc ẩm trị liệu chứng đại đầu ôn, Ông lấy hoàng cầm, hoàng
liên khổ hàn thông giáng, lấy thăng ma, sài hồ làm dẫn kinh dược.
Ngoài
ra, trong trị liệu phong thấp tý thống ở tứ chi, trên nguyên tắc khứ phong trừ
thấp, thông lợi kinh lạc, Lý Đông Viên cũng căn cứ vào vị trí kinh lạc tạng phủ
bị bệnh khác nhau mà lựa chọn các dẫn dược cho phù hợp. Nếu thuộc kinh dương
minh thì lấy thăng ma, bạch chỉ, cát căn để dẫn ; nếu thuộc kinh thái dương thì
lấy cảo bản, khương hoạt để dẫn ; nếu thuộc kinh thiếu dương thì lấy sài hồ để
dẫn ; nếu thuộc kinh thái âm thì lấy thăng ma, bạch chỉ, thông bạch để dẫn ;
nếu thuộc kinh thiếu âm thì lấy tế tân, độc hoạt để dẫn ; nếu thuộc kinh quyết
âm thì lấy sài hồ, thanh bì để dẫn.
2.5
Mở rộng phạm vi trị liệu của dược vật
Thuốc uống trong vừa
trị bệnh nội tạng lại vừa có thể chữa bệnh ở thể biểu là nhờ ở công năng dẫn
truyền dược vật của kinh lạc thông qua các dẫn dược. Với lý luận quy kinh dược
vật, phạm vi trị liệu của không ít bài thuốc, vị thuốc đã được mở rộng. Ví như,
theo y văn kinh điển, sài hồ chưa bao giờ được dùng để trị liệu chứng nhãn khẩu
oa tà, nhưng hiện nay trên lâm sàng đã dùng có hiệu quả chính là dựa trên cơ sở
sài hồ quy nhập kinh can, mà kinh can lại có nhánh đi từ tổ chức mạch quanh mắt
xuống má rồi vòng vào trong môi. Lục vị địa hoàng hoàn là phương tễ thường dùng
để tư bổ thận âm, nhưng hiện nay còn được dùng để chữa chứng đau nhức gót chân
và mắt cá do thoái hoá mọc gai xương có hiệu quả là vì kinh thận bắt đầu từ mặt
dưới ngón chân út đi vào lòng bàn chân, dọc dưới xương thuyền phía trong bàn
chân, đi sau mắt cá trong, vòng xuống gót rồi ngược lên bắp chân.
Lý luận quy kinh dược vật được dùng để chỉ
thế mạnh của mỗi vị thuốc ở một phương diện nào đó, ngoài phương diện đó ra
thuốc còn có những tác dụng trị liệu khác. Trong thời đại hiện nay, dưới ánh
sáng của khoa học hiện đại, nhiều công dụng mới của thuốc được phát hiện như
chống viêm, giảm đau, giải mẫn cảm, sát trùng, cải thiện miễn dịch, hạ áp,
kháng ung...nên việc nghiên cứu dùng lý luận quy kinh để làm rõ mọi vấn đề là
rất khó và cũng rất cần thiết.
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét