TRỊ VỊ BỆNH, HỌC THUYẾT ĐỘC ĐÁO CỦA
Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG
Nếu như phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” mới chỉ được đề cập
đến một cách chính thống trong trong nền y học hiện đại ở nước ta từ giữa thế kỷ
thứ 20 thì trên thực tế, vấn đề này đã được nói đến trong y học cổ truyền
phương Đông từ cách đây hơn 2000 năm với nội dung hết sức sâu rộng bằng học
thuyết “trị vị bệnh” được ghi lại sớm nhất trong y thư kinh điển “Hoàng đế Nội
kinh”. “Trị vị bệnh” có nghĩa là : chữa bệnh từ khi chưa có bệnh. Sách cổ viết
: “Thượng công trị vị bệnh, bất trị dĩ bệnh” (Người thầy thuốc giỏi không chờ tới
khi có bệnh mới chữa trị, mà chữa từ khi chưa có bệnh). Trong suốt chiều dài lịch
sử tồn tại và phát triển của y học cổ truyền, quan điểm này luôn luôn là tư tưởng
chỉ đạo thống suốt trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn.
Từ xa xưa, những thầy thuốc phương Đông cổ
đại không những luôn coi trọng nghiên cứu việc trị liệu, mà còn rất chú ý đến y
học dự phòng. Với học thuyết “Trị vị bệnh”, đông y yêu cầu các thày thuốc cần
quán triệt quan điểm “dùng thuốc tuy tốt, nhưng không dùng còn tốt hơn”. Ngoài
ra, cần có sự hiểu biết cả về y dược học
với thiên văn học, địa lý học, triết học, nông học, số học, âm luật học, đạo học,
phật học, ẩm thực dinh dưỡng, binh pháp, chính pháp, khí công,…để làm cơ sở thực
hiện tốt nhất học thuyết “trị vị bệnh” vì sức khỏe của cộng đồng. Có thể dẫn ra
dưới đây một số đoạn kinh văn bàn luận về vấn đề này
Sách “Tố vấn - Tứ khí điều thần đại luận” viết
: “Thánh nhân bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh, bất trị dĩ loạn trị vị loạn, thử
chi vị dã. Phu bệnh dĩ thành nhi hậu dược chi, loạn dĩ thành nhi hậu trị chi,
ví do khát nhi xuyên tỉnh, đấu nhi chú bình, bất diệc vãn hồ!” (Là thầy thuốc
giỏi, không trị khi đã mắc bệnh, mà trị từ lúc chưa mắc bệnh ; không trị khi đã
loạn mà trị lúc chưa loạn. Nếu mắc bệnh rồi mới uống thuốc, để loạn lạc rồi mới
trị, chẳng khác gì lúc khát mới đào giếng, sắp đánh nhau mới đúc đồ binh, thì
cũng đã muộn lắm sao)
Sách “Tố Vấn - Âm dương ứng tượng đại luận”
viết : “Tà phong chi chí, tật như phong vũ, cố thiện trị giả trị bì mao, kỳ thứ
trị cơ phu, kỳ thứ trị cân mạch, kỳ thứ trị lục phủ, kỳ thứ trị ngũ tạng. Trị
ngũ tạng giả, bán tử bán sinh dã.” (Phong tà đến, bệnh như phong vũ, người chữa
trị giỏi thì chữa ngay lúc tà khí còn ở bì mao, bậc thứ tiếp trị bệnh ở cơ phu,
bậc thứ tiếp thì chữa khi tà khí đã vào tới cân mạch, lại bậc thứ tiếp trị bệnh
khi tà khí vào tới lục phủ, lại bậc thứ tiếp trị bệnh khi tà khí vào tới ngũ tạng.
Trị tại ngũ tạng, thì một nửa thành công, một nửa thất bại)
Sách “Linh khu - Quan năng” viết : “Thị cố
thượng công chi thủ khí, nãi cứu kỳ manh nha; Hạ công thủ kỳ dĩ thành, nhân bại
kỳ hình.” (Người thầy thuốc giỏi trị bệnh khi bệnh vừa nảy sinh, người thầy thuốc
kém cỏi trị bệnh khi bệnh đã thịnh, vì thế dễ thất bại).
Sách “Linh Khu - Thuận nghịch” viết : “Thượng
công, thích kỳ vị sinh giả dã. Kỳ thứ, thích kỳ vị thịnh giả dã. Kỳ thứ, thích
kỳ dĩ suy giả dã. Hạ công, thích kỳ phương tập giả dã, dư kỳ hình chi thịnh giả
dã, dư kỳ bệnh chi dư mạch tương nghịch giả dã. Cố viết, phương kỳ thịnh dã, vật
cảm hồi thương, thích kỳ dĩ suy, việc tất đại xương. Cố viết, thượng công trị vị
bệnh, bất trị dĩ bệnh, thử chi vị dã.” (Người thầy thuốc giỏi châm cứu khi chưa
sinh bệnh. Kế tiếp, châm cứu khi bệnh chưa nặng. Kế tiếp, châm khi bệnh đã đỡ. Người
thầy thuốc kém cỏi, châm cứu bằng cách đánh úp, khi bệnh đã phát triển mạnh, bệnh
và mạch tương phản. Vì vậy, người thầy thuốc giỏi chữa bệnh khi chưa có bệnh)
Sách
“Tố Vấn - Di tinh biến khí luận” viết : “Thô công hung hung, dĩ vi khả
công, cố bệnh vị dĩ, tân bệnh phục khởi.” (Người thầy thuốc dốt nát là hay liều
lĩnh, cho là bệnh có thể trị bằng phép “công”, khiến cho bệnh cũ chưa khỏi bệnh
mới lại sinh ra).
Sách “Tố Vấn - Thích nhiệt luận” viết : “Thận
nhiệt bệnh giả di tiên xích, bệnh tuy vị phát, kiến xích sắc giả thích chi,
danh viết trị vị bệnh.” (Người bị thận nhiệt, thấy mép đỏ trước, bệnh tuy chưa
phát, nhưng nhìn thấy sắc đỏ thì tiến hành châm cứu luôn, thế gọi là Trị vị
bệnh).
Từ vài đoạn trích dẫn trên đây, có thể thấy
người thầy thuốc thời xưa vô cùng coi trọng việc phòng bệnh nhằm mục đích để
không sinh bệnh hoặc ít sinh bệnh, chú ý phát hiện và trị liệu bệnh sớm, coi vấn
đề điều trị bệnh từ thời kỳ bệnh mới phát sinh là điều quan trọng. Đoạn thứ nhất
chủ yếu bàn về vấn đề không nên đợi bệnh hình thành mới điều trị hay nói cách
khác là phải dự phòng tích cực và điều trị dự phòng. Đoạn thứ 2 và 3 bàn về vấn
đề phải phát hiện bệnh sớm và điều trị từ khi bệnh mới nảy sinh hay nói cách
khác là phải có quan điểm dự phòng trong trị liệu. Đoạn 4 và 5 bàn về vấn đề trị
bệnh như dùng binh, cần nắm vững thời cơ để có thể thành công, không nên để đến
khi chính khí đã bị tổn thương mới trị liệu hay nói cách khác là phải tiên lượng
được sự phát triển của bệnh để điều trị kịp thời, cũng có nghĩa là phải dự
phòng trong trị liệu. Đoạn 6 chỉ ra rằng phải chú ý phát hiện những dấu hiệu sớm
của bệnh tại thời điểm bệnh chưa phát và khẩn trương trị liệu để cho bệnh không
thể phát ra được, đây cũng chính là nội dung phòng bệnh hơn chữa bệnh của y học
cổ truyền.
Sau
“Hoàng đế nội kinh”, tư tưởng học thuyết “Trị vị bệnh” đã được các thày thuốc đời
sau tiếp tục phát triển, hoàn thiện trong cả lý luận và thực tiễn. Ví như, trong
sách “Nạn kinh”, nạn thứ 77 viết : “Kinh ngôn thượng công trị vị bệnh, trung
công trị dĩ bệnh giả hà tất dã ? Nhiên, sở vi trị vị bệnh giả, kiến can chi bệnh,
tắc tri can đương truyền chi dư tỳ. Cố tiên thực tỳ khí, vô lệnh đắc thụ can
chi tà. Cố viết Trị vị bệnh. Trung công kiến can chi bệnh, bất hiểu tương truyền,
đãn nhất tâm trị can. Cố viết Trị dĩ bệnh dã.”(Người thầy thuốc giỏi
có thể chữa bệnh khi bệnh chưa phát, thầy thuốc bình thường chỉ có thể chữa bệnh
khi bệnh đã phát, điều này giải thích như thế nào ? Nói chữa bệnh khi bệnh chưa
phát, biết can mộc khắc tỳ thổ, thấy can bị bệnh tất sẽ truyền đến tỳ, cho nên
trước tiên phải làm cho tỳ khí đầy đủ trong khi chữa bệnh ở can. Người thầy thuốc
bình thường thấy biểu hiện bệnh ở can nhưng không hiểu can ảnh hưởng đến tỳ, nên
chỉ tập trung chữa can bệnh mà thôi).
Nạn
thứ 13 cũng viết : “Tri nhất vi hạ công, tri nhị vi trung công, tri tam vi thượng
công. Thượng công giả thập toàn cửu, trung công giả thập toàn bát, hạ công giả
thập toàn lục, thử chi vị dã.” (Biết 1 là bậc hạ công, biết 2 là bậc trung
công, biết 3 là bậc thượng công. Bậc Thượng công 10 người chữa khỏi 9, bậc trung
công 10 người chữa khỏi 8, bậc hạ công 10 người chỉ chữa khỏi có 6).
Trong
sách “Kim quỹ yếu lược”, phần thứ nhất có viết : “Trị vị bệnh, kiến can bệnh,
tri can truyền tỳ, đương tiên thực tỳ. Tứ quý tỳ vương bất thụ tà, tức vật bổ
chi”. (Trị vị bệnh, thấy bệnh ở can, biết bệnh ở can sẽ truyền đến tỳ, trước
tiên phải làm mạnh tỳ khí. Tỳ mạnh bốn mùa không bị tà khí xâm nhập thì không cần
phải bổ tỳ)
Trong
sách “Thiên kim yếu phương” cũng viết : “Thượng y y vị bệnh chi bệnh, trung y y
dục bệnh chi bệnh, hạ y y dĩ bệnh chi bệnh.” “Năng tham hợp nhi hành chi giả,
khả vị thượng công”.
Trong
“Ngoại cảm ôn nhiệt thiên” nêu: “Vụ tại tiên an vị thụ tà chi địa”. Trong “Ôn bệnh
điều biện” nêu: “Thanh túc thượng tiêu, bất phạm trung hạ, vô khai môn ấp đạo
chi tệ”...
Tổng
hợp ý kiến luận bàn qua các thời đại về tư tưởng Trị vị bệnh, có thể thấy,
“vị bệnh” là thuận theo quy luật biến hóa của âm dương tứ thời mà tăng cường
phương pháp dưỡng sinh dự phòng, chữa bệnh từ khi bệnh chưa phát từ đó sẽ không
mắc bệnh nữa hoặc giả cần phát hiện rất sớm những thay đổi về sắc mạch, khẩn
trương điều trị, dập tắt sự nảy sinh của bệnh từ lúc còn manh nha không cho bệnh
phát sinh hoặc giả nếu bệnh đã phát sinh thì phải kịp thời nhận thấy quy luật
phát triển mà có những biện pháp điều trị dự phòng tích cực để bệnh không chuyển
sang thể nặng, mau hồi phục, không để lại di chứng nặng nề và không để truyền
biến sang các tạng phủ khác…Tóm lại, tư tưởng học thuyết “trị vị bệnh” trong y
học cổ truyền phương Đông rất có ý nghĩa trong công tác chữa trị bệnh tật và vẫn
giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay trên nhiều phương diện. Ví như, việc vận dụng
học thuyết “trị vị bệnh” trong việc trị liệu các bệnh nan y như viêm gan, viêm
thận, viêm khớp dạng thấp, hen suyễn, lupud ban đỏ, sơ cứng bì, đột quỵ não, nhồi
máu cơ tim, ung thư...
Như chúng ta đã biết, đại bộ phận những bệnh
nan y này đều do nội thương gây ra và có thể dùng phương pháp chẩn trị của y học
cổ truyền tại thời điểm chưa xác định chính xác bệnh để phát hiện những dấu hiệu
sớm của bệnh, đó là sự thay đổi của âm dương khí huyết, chứng trạng, màu sắc,
hình dạng, âm thanh, ẩm thực, tình chí, tinh thần, thể lực, tân dịch, lưỡi, mạch…Tại
thời điểm này, dưới sự chỉ đạo của tư tưởng học thuyết “trị vị bệnh”, tiến hành
tứ chẩn để phát hiện các chứng trạng của bệnh rồi thực thi biện chứng luận trị.
Điều này, giúp cho chính khí thắng tà khí, làm cho bệnh tình sớm thuyên giảm hoặc
dừng lại mà không thể phát sinh. Đây chính là điều có giá trị nhất mà học thuyết
“trị vị bệnh” của y học cổ truyền đem lại. Nếu Đông y và Tây y liên kết hợp tác
với nhau, phát huy thế mạnh của hai nền y học thì việc giải quyết các bệnh nan
y chắc chắn sẽ đạt được những thành tựu to lớn.
Những
năm gần đây, một số nghiên cứu của các thày thuốc y học cổ truyền Nhật Bản đối
với tư tưởng học thuyết “ trị vị bệnh” đã được đánh giá rất cao. Y Đằng Thanh
tiên sinh nói : “Cái gọi là Thượng công trị vị bệnh, là người thầy thuốc giỏi tại
thời điểm bệnh chưa biểu hiện ra ngoài đã tiến hành điều trị. Cũng có thể nói,
khi bệnh đã phát ra rõ ràng mới trị liệu thì không phải là thượng công”. Ví
như, trước khi bị cảm mạo nếu cảm thấy người hơi khó chịu, vai hơi mỏi, đầu hơi
đau…thì chỉ cần uống 01 thang thuốc dự phòng tích cực, lập tức có thể làm cho bệnh
cảm không phát sinh, sức khỏe phục hồi nhanh chóng. Người Trị vị bệnh cũng không nên
tuyệt đối hóa việc phòng bệnh nói chung mà phải quan tâm đến từng cá nhân cụ thể
để có những cách xử lý thích hợp nhất với người đó. Cũng chính vì thế, người chỉ
biết phòng bệnh cũng không thể là thượng công. Hoàn Sơn Chính Lan tiên sinh thì
cho rằng : “Thời kỳ tiền triệu của nhồi máu não, đã chứng minh là phù hợp với
khái niệm Đông y trị vị bệnh”. Ngoài ra, còn có quan điểm của một số tác giả
khác như : “Tại thời điểm những căn bệnh nan y được chẩn đoán phát bệnh, tiến
hành trị liệu trước khi bệnh phát là trị vị bệnh” ; hay quan điểm: “Trị vị bệnh
nhất thiết phải chẩn đoán ra vị bệnh…Dùng biện chứng luận trị của y học cổ truyền
làm trọng điểm thì sẽ chẩn đoán ra bệnh” ; hay có quan điểm : “Trị vị bệnh
chính là y học dự phòng”.
Có thể
thấy, tư tưởng “trị vị bệnh” của y học cổ truyền có khởi nguồn từ rất sớm, được
duy trì và phát triển ngày càng sâu sắc qua các thời đại. Vấn đề quan trọng hiện
nay là, người thầy thuốc y học cổ truyền trong thời hiện đại phải biết quý trọng,
nghiên cứu, thừa kế, hoàn thiện và phát huy tối đa giá trị của học thuyết này
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa y học cổ truyền và y học hiện đại nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong công cuộc phòng chống bệnh tật cho con người.
BS Lê Vân Hồng
ThS Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét