DÙNG ĐÔNG DƯỢC DƯỠNG SINH MÙA XUÂN
Theo phép
dưỡng sinh cổ truyền phương Đông, vào mùa xuân ngoài việc điều dưỡng
tinh thần, ăn uống, vận động hợp lý, sinh hoạt điều độ…thì việc
dùng đông dược cũng có một vai trò hết sức quan trọng. Từ xa xưa,
không ít dưỡng sinh gia đã từng khuyên vào mùa này nên chọn dùng một
số đông dược để điều chỉnh công năng cơ thể và dự phòng bệnh tật.
Ví như, Tôn Tư Mạo trong sách Thiên
kim dực phương đã viết : “Vào mùa xuân nên uống ba đến năm thang
Tiểu tục mệnh và một tễ bổ, một tễ tán”. Sách Thọ thế bảo nguyên cũng cho rằng : “Tháng Ba uống rượu hoa
đào có thể trừ bách bệnh, ích nhan sắc”. Ngoài ra, cổ nhân còn
khuyên rằng :vào ngày “Lập Xuân” nên uống nước xu hào để dự phòng
các bệnh truyền nhiễm, trong tiết tháng Ba nên uống Tùng hoa tửu, sau
tiết “Xuân Phân” nên uống Thần minh tán.
1. Nguyên tắc sử dụng
Trước
hết, theo cổ nhân phải chú ý Bổ
ích chính khí. Mùa xuân, khí dương trong giới tự nhiên bắt đầu
thăng phát, vạn vật hồi sinh, các cơ quan tạng phủ trong nhân thể cũng
theo đó mà tăng cường năng lực hoạt động nên cần rất nhiều các chất
dinh dưỡng cho quá trình sinh trưởng và phát dục. Bởi vậy, việc lựa
chọn và sử dụng hợp lý các đồ ăn thức uống và thuốc bổ đông y là
rất hữu ích. Hơn nữa, mùa xuân tiết trời ấm áp, nhiều gió, là điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh, dễ
gây nên các bệnh truyền nhiễm nên việc bồi bổ sức khỏe, nâng cao sức
đề kháng của cơ thể càng hết sức cần thiết, đặc biệt với những
người có thể chất hư yếu, mắc bệnh mạn tính, người già, trẻ em.
Thứ hai,
phải chú ý dùng thuốc Dưỡng can.
Theo cổ nhân, mùa xuân can dương thượng cang, bệnh can dễ phát sinh và
phát triển, vậy nên việc dùng thuốc dưỡng can là rất cần thiết, tất
nhiên là phải có sự hướng dẫn của các lương y có chuyên khoa và giàu
kinh nghiệm. Thường dùng là các thuốc dưỡng can minh mục như kỷ tử,
cúc hoa, thương truật, bạch tật lê…; các thuốc dưỡng can vinh cân như
nhục thung dung, mộc qua, thỏ ty tử, ngưu tất…; các thuốc nhu can lý
khí hòa huyết như địa cốt bì, sài hồ, bạch thược, xuyên luyện tử,
địa hoàng, hoàng tinh, kỷ tử…
Thứ ba,
phải trọng dụng các thuốc Phòng
phong trừ thấp. Mùa xuân thời tiết rất dễ biến động, lúc mưa lúc
tạnh, lúc lạnh lúc nóng, rất dễ bị thương phong cảm mạo, lại nhiều
gió và sương mù khiến các bệnh viêm phế quản mạn tính, hen suyễn,
viêm khớp dạng thấp hay phát tác và nặng thêm. Đông y cho rằng, phế
là tạng ở cao nhất, non nớt, dễ bị ngoại tà hàn nhiệt xâm phạm ;
tỳ là tạng thích táo ghét thấp, chủ về vận hóa thủy thấp. Bởi
vậy, ở những người phế khí, tỳ khí hư nhược rất dễ bị phát bệnh
vào mùa xuân nên phải chú ý bổ phế, kiện tỳ để phòng phong trừ
thấp.
Cuối
cùng, nên lưu tâm Thanh nhiệt sinh tân.
Theo cổ nhân, mùa xuân khí trời mát mẻ nhưng dễ bị phong hàn xâm nhập
vào bên trong mà hóa nhiệt, lại thêm việc qua mùa đông thường dùng
nhiều đồ ăn ấm nóng nên rất dễ tích nhiệt trong người mà làm hao
tổn tân dịch. Thêm nữa, cuối xuân đầu hè là thời điểm tà khí phong
ôn lưu hành cũng rất dễ làm nóng trong người vì thế việc lựa chọn
và sử dụng các vị thuốc bổ có công dụng thanh nhiệt sinh tân là rất
cần thiết.
2. Những vị thuốc thường dùng
* Bổ thận
dưỡng can, tư âm trợ dương
- Thỏ ty tử : vị cay
ngọt, tính bình, có công dụng bổ thận ích tinh, dưỡng can minh mục,
được sách “Bản thảo chính nghĩa” xếp vào hàng thượng phẩm của phép
dưỡng can minh mục, uống lâu ngày có khả năng làm sáng mắt, nhẹ
người và kéo dài tuổi thọ.
- Nhục thung dung : vị
mặn, tính ấm, có công dụng bổ thận tráng dương, ích âm bổ huyết,
nhuận tràng thông tiện, được sách “Bản thảo sơ kinh” coi là “tuyệt
dược” để ích can thận, bổ tinh huyết. Có thể dùng độc vị, mỗi ngày
15-30g sắc hoặc thái vụn hãm uống.
- Hà thủ ô : vị đắng
ngọt, tính hơi ấm, có công dụng bổ can thận, ích tinh huyết, làm đen
râu tóc. Thường dùng kết hợp với thục địa, kỷ tử, thỏ ty tử…nhưng
cõng có thể dùng độc vị với liểu 30g mỗi ngày sắc hoặc thái vụn
hãm uống tử 1 đến 2 tháng.
- Kỷ tử : vị ngọt, tính
bình, có công dụng tư can bổ thận, ích tinh minh mục, cố tinh kiện
cốt, nhuận phế bổ hư. Có thể dùng 15g ninh với 100g gạo tẻ thành
cháo ăn hàng ngày hoặc dùng độc vị 15-30g hãm uống thay trà. Cổ nhân
còn dùng 100g lá kỷ tử nấu với 100g gan lợn ăn để thanh nhiệt giải
độc, dưỡng huyết minh mục.
- Bạch thược : vị chua
ngọt, tính hơi lạnh, có công dụng bổ huyết dưỡng can, liễm âm chỉ
thống, được coi là một “yếu dược” để bổ huyết dưỡng can. Thường
dùng kết hợp bạch thược 15g, đương quy 9g, thục địa 15g, xuyên khung 6g,
sắc hoặc thái vụn hãm uống thay trà hàng ngày.
* Bổ phế
kiện tỳ, khu phong trừ thấp
- Nhân sâm : vị ngọt, tính
hơi ấm, có công dụng đại bổ nguyên khí, bổ tỳ ích phế, sinh tân an
thần. Có thể dùng dưới nhiều dạng khác nhau như trà tan, kẹo sâm,
thái vụn hãm uống, ngâm rượu hoặc mật ong. Thông thường mỗi ngày
dùng 5-10g, tốt nhất là ngâm nước lạnh qua một đêm rồi đem chưng cách
thủy nửa tiếng rồi uống nước, ăn cái.
- Hoàng kỳ : vị ngọt,
tính hơi ấm, có công dụng bổ khí cố biểu, sinh huyết sinh cơ, lợi
thủy, điều bổ phần khí của nhân thể từ biểu đến lý, từ trong ra
ngoài. Có thể dùng độc vị mỗi ngày 15g thái vụn hãm hoặc sắc
uống.
- Hoàng tinh : vị ngọt,
tính bình, có công dụng bổ tỳ khí, dưỡng vị âm, nhuận tâm phế, được
coi là “diệu dược” để bổ trung ích khí, có thể dùng để thay thế cho
sâm kỳ. Có thể dùng 30g kết hợp với các vị thuốc khác như sơn tra
25g, hà thủ ô 15g, sắc uống hoặc đem hầm với 500g thịt lợn nạc hoặc
thịt bò, thịt dê làm canh ăn.
- Phòng phong : vị cay
ngọt, tính hơi ấm, có công dụng phát biểu tán phong, trừ thấp chỉ
thống, được sách “Dược loại pháp tượng” coi là diệu dược để trừ
phong tà ở phần trên của cơ thể. Có thẻ dùng dưới dạng sắc hoặc
hãm uống thay trà với liều 10-12g mỗi ngày.
- Bạch truật : vị đắng
ngọt, tính ấm, có công dụng bổ tỳ ích khí, táo thấp lợi thủy, cố
biểu chỉ hãn. Có thể dùng kết hợp với các vị thuốc khác như nhân
sâm, cam thảo, bạch linh hoặc dùng độc vị với liều 12-15g mỗi ngày,
sắc hoặc thái vụn hãm uống thay trà.
*Thanh nhiệt
sinh tân
- Mạch môn : vị ngọt hơi
đắng, tính hơi hàn, có công dụng dưỡng âm nhuận táo, sinh tân chỉ
khát, thanh tâm trừ phiền. Có thể dùng kết hợp 9g với kim ngân hoa 9g,
cát cánh 6g, sinh cam thảo, hãm uống thay trà hoặc dùng độc vị thái
vụn, sao thơm, mỗi ngày lấy 10-12g hãm uống.
- Thạch hộc : vị ngọt
nhạt, tính lạnh, có công dụng dưỡng âm thanh nhiệt, ích vị sinh tân.
Có thể dùng 15g kết hợp với thục địa 15g, hoài sơn 12g, sơn thù du
9g, kỷ tử 12g, cúc hoa 6g, sắc hoặc hãm uống hàng ngày. Đây còn được
coi là một thảo dược có công dụng kéo dài tuổi thọ.
- Huyền sâm : vị ngọt
mặn, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt tư âm, lương huyết giải độc,
thích hợp với các trường hợp nhiệt bệnh háo khát, thương tân tiện
bí, hầu họng sưng đau, ung thũng. Có thể dùng độc vị 12-15g thái vụn
hãm hoặc sắc uống hàng ngày.
- Bản lam căn : vị đắng,
tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải độc, lượng huyết lợi hầu
họng. Thường được dùng để dự phòng và trị liệu các bệnh truyền
nhiễm như bạch hầu, sởi, quai bị, viêm gan cấp tính, sốt phát ban…hay
xảy ra vào mùa xuân.
Ngoài ra,
cổ nhân còn khuyên dùng các vị thuốc thanh nhiệt sinh tân khác như chi
tử, lô căn, bạch mao căn, tỳ bà diệp…
ThS Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét