MẠCH ĐÔNG LÔ CĂN ẨM, TRÀ DƯỢC THANH NHIỆT
ĐỘC ĐÁO
Mùa hạ, tiết trời nóng
bức, nhu cầu bổ sung nước cho cơ thể là rất lớn. Uống đủ nước tinh khiết đã là
tốt, nhưng giá như có được một thứ đồ giải khát nào đó vừa đảm bảo cung cấp
nước và muối vô cơ, lại vừa có tác dụng điều hoà công năng các tạng phủ, làm
mát và bổ dưỡng cơ thể thì thật là tốt biết bao ! Trà dược thanh nhiệt giải thử
của y học cổ truyền là một trong những loại đồ uống có khả năng như vậy.
Trong kho tàng kinh
nghiệm dân gian và các sách thuốc đời xưa, chủng loại trà dược này là hết sức
phong phú. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải biết lựa chọn những công thức đơn
giản, dễ kiếm, dễ chế mà vẫn đảm bảo thu được hiệu quả như mong muốn. Bài viết
này xin được giới thiệu một trong những ví dụ điển hình để độc giả tham khảo,
đó là loại trà có tên gọi là Mạch đông lô căn ẩm.
@ Thành phần và cách dùng
Mạch đông 120g, lô căn
150g. Hai thứ rửa sạch, thái vụn, phơi hoặc sấy khô, trộn đều rồi đựng trong lọ
kín để dùng dần. Mỗi lần lấy 30g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20
phút là có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Có thể chế thêm một chút
đường phèn cho dễ uống.
@ Công dụng
Thanh nhiệt giải thử,
dưỡng âm sinh tân, chỉ khát trừ phiền, dùng thích hợp trong mùa hè thu khi thời
tiết nóng bức, mất nhiều mồ hôi, cơ thể mỏi mệt, họng khô miệng khát, đầu nặng
mắt hoa, ngực bụng bồn chồn rạo rực không yên, dự phòng tích cực tình trạng say
nắng, say nóng và các bệnh lý viêm nhiễm đường hô hấp, viêm đường tiết niệu,
viêm da...
@ Bàn luận
Loại trà dược này thực
chất có nguồn gốc từ bài thuốc cổ Mạch đông lô căn thang do Tôn
Tư Mạo, y gia trứ danh đời Đường (Trung Quốc), người từng được hậu thế tôn vinh
là "dược vương" sáng chế, có công dụng thanh lương tiêu thử, thường
được dùng để phòng chống tình trạng mất nhiều mồ hôi và các chứng bệnh trong
mùa hè. Trên cơ sở phương thang này, các y gia đời sau đã phát triển và cấu tạo
ra nhiều bài thuốc khác có công năng tương tự, ví như Ngô Cúc Thông, y gia
thuộc trường phái Ôn bệnh đời Thanh, đã chế ra phương thang Ngũ chấp
ẩm được ghi trong sách Ôn bệnh điều biện, gồm nước ép của năm loại
củ quả và dược liệu là lê, mã thầy, rễ lau, mạch đông và ngó sen.
Mạch đông có nhiều tên
gọi như mạch môn đông, giai tiền thảo, lan tiên...và vì "kỳ diệp như phỉ,
lăng đông bất điêu" (lá giống như lá hẹ, mùa đông vẫn xanh tốt) nên còn
được gọi là nhẫn đông thảo, bất tử thảo. Theo sách Thập châu ký ghi lại
: trong một lần đi săn, Tần Thuỷ Hoàng bất chợt nhìn thấy một con chim cắp một
loại cỏ có lá giống như lá hẹ, hoa màu tím nhạt, liền sai người mang đến hỏi
Quỷ Cốc Tử vốn là người "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" lại
rất tinh thông về y thuật xem là loại cây gì vậy ? Quỷ Cốc Tử liếc nhìn, cười
mà rằng : "Thử nãi Đông hải doanh châu thượng đắc bất tử chi dược. Nhân tử
hậu tam thiên, dụng thử thảo cái kỳ thân, đương thời tức hoạt, nhất châu thảo
tựu khả cứu hoạt nhất nhân" (loại cỏ này là một vị thuốc bất tử mọc ở Đông
hải, người chết trong ba ngày đầu mà dùng thuốc này đắp lên người thì tức thời
sống lại, mỗi cây có thể cứu sống một người). Tần Thuỷ Hoàng nghe vậy mừng lắm,
liền bắt hàng ngàn nô lệ dùng thuyền đi suốt ngày đêm đến Đông hải để tìm cây
thuốc, những mong có được một thứ thần dược để thoả mãn khát vọng trường sinh
bất lão của mình. Đương nhiên, người đi thì chẳng thể quay về và thứ cỏ tiên
dược của Tần Thuỷ Hoàng cũng chỉ là mộng tưởng !
Thực ra, mạch đông
không thể là vị thuốc thần diệu như Quỷ Cốc Tử nói, nhưng sự thật thứ cây có rễ
củ rất mềm, chứa nhiều nước, tính mát, vị ngọt này lại có công dụng khá đặc
biệt : nhuận phế dưỡng âm, ích vị sinh tân, thanh tâm trừ phiền, thanh nhiệt
giảm ho. Sách Bản thảo tân biên
đã viết : "Mạch môn đông, tả phế trung chi phục hoả, thanh vị trung chi
nhiệt tà, bổ tâm khí chi lao thương, chỉ huyết gia chi ẩu thổ, ích tinh cường
âm, giải phiền chỉ khát, mỹ nhan sắc, duyệt cơ phu, thoái hư nhiệt, giải phế
táo, định khái thấu" (mạch đông có tác dụng làm hết hoả tà ẩn nấp trong
phế, thanh trừ nhiệt tà trong vị, bổ tâm khí, cầm máu, chống nôn, ích tinh
dưỡng âm, giải khát trừ phiền, làm cho da khoẻ và đẹp, có lợi cho nhan sắc, trừ
hư nhiệt, chữa phế táo và giảm ho). Thậm chí, ngay đến Tô Đông Pha, thi nhân
trứ danh đời Bắc Tống (Trung Quốc) cũng đã tự chế và tự dùng cho mình một
phương thuốc có tên là "Tô Thức mạch môn đông thang" và viết thơ ca
tụng vị thuốc này : "Nhất chẩm thanh phong trị vạn tiền, vô nhân khẳng mãi
bắc song miên, khai tâm noãn vị môn đông ẩm, tri thị Đông Pha thủ tự
tiên".
Theo dược học hiện đại,
mạch đông có chứa nhiều tinh dầu, glucoside và nhiều chất khác, trong đó đặc
biệt có tới 28 nguyên tố vi lượng rất cần cho cơ thể. Kết quả nghiên cứu dược
lý cho thấy : mạch đông có tác dụng kháng khuẩn, trấn tĩnh và chống co giật,
tăng cường khả năng chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu ôxy, cải thiện
sức co bóp cơ tim, bảo hộ tế bào cơ tim, nâng cao năng lực miễn dịch của cơ
thể, điều hoà đường huyết và làm tăng sự vận chuyển thức ăn trong đường tiêu
hoá.
Lô căn là rễ của cây
lau, còn được gọi là vĩ căn, thuận giang long, lô đông căn, lô sài căn, lô
thông...tính lạnh, vị ngọt, có công dụng thanh nhiệt sinh tân, trừ phiền chỉ
ẩu, thường được dùng để chữa các chứng bệnh có sốt gây mất nước phiền khát, nôn
do vị nhiệt, viêm hầu họng, viêm loét môi miệng, viêm quanh răng, viêm đường
tiết niệu, hoàng đản, sỏi mật và các chứng viêm nhiệt khác. Theo kinh nghiệm
của người xưa, trong mùa hè thu, dịch chiết lô căn có khả năng bổ sung lượng
nước đã mất qua đường mồ hôi đồng thời còn kích thích tiêu hoá, tạo ra cảm giác
thèm ăn. Nhà dược học vĩ đại Lý Thời Trân đã viết : “Ích thực gia xan, tu tiên
lô phác” (muốn lợi cho tiêu hoá nên dùng lô căn, hậu phác). Nghiên cứu hiện đại
cho thấy, lô căn có tác dụng giải nhiệt, trấn tĩnh và giảm đau. Theo kinh
nghiệm của cổ nhân, lô căn thường được phối hợp với mạch đông hoặc ngọc trúc để
làm tăng tác dụng thanh nhiệt sinh tân.
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét