NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM
KHI DÙNG ĐÔNG Y TRỊ LIỆU BẤT LỰC
Thường thì, khi lâm vào
trạng thái bất lực ở các mức độ khác nhau, cánh “mày râu” hay tìm đến đông y để
tư vấn và trị liệu. Đó là một thói quen tốt, bởi lẽ trong lĩnh vực này các biện
pháp của y học cổ truyền tỏ ra có nhiều thế mạnh. Nhưng, điều đáng nói ở đây
là, nhiều khi cả thầy thuốc và người bệnh đều bị mắc phải những quan niệm sai lầm
không đáng có, từ đó dẫn đến hậu quả người bệnh thì “tiền mất tật mang”, còn thầy
thuốc thì suy giảm uy tín. Vậy, những sai lầm đó là gì ?
Trước hết, là quan niệm
cho rằng : nguyên nhân của chứng bất lực chính là do “thận hư”. Vì nhiều lý do
khác nhau, khi lâm vào trạng thái bất lực không ít bệnh nhân nghĩ ngay rằng :
thận của mình quá kém và tự động đi tìm những vị thuốc đông y có tác dụng bổ thận
tráng dương để trị liệu. Quan niệm này lại càng trở nên sâu sắc khi không may họ
được tư vấn bởi các “lang băm” chính hiệu. Xét trên cả hai phương diện lý thuyết
và thực tiễn thì điều đó là hết sức sai lầm.
Theo y học cổ truyền, bất
lực thuộc vào phạm vi chứng “dương nuy” mà nguyên nhân gây nên rất phức tạp như
: tình chí uất kết (yếu tố tâm lý, tình cảm), ẩm thực bất điều (ăn uống không hợp
lý), lục dâm xâm nhập (các yếu tố gây bệnh từ bên ngoài như hàn, thấp…), phòng sự quá độ (sinh hoạt tình dục bừa
bãi), niên cao thể nhược (tuổi cao sức yếu), cửu bệnh sở luỵ (bị bệnh lâu
ngày), bẩm thụ tiên thiên bất túc (di truyền, tật bệnh từ nhỏ)...Những nguyên
nhân này làm rối loạn công năng các tạng phủ, trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên
chứng dương nuy với nhiều loại hình bệnh lý khác nhau như Can khí uết kết,
Can kinh thấp nhiệt, Tâm tỳ lưỡng hư, Khí trệ huyết ứ, Hàn ngưng can mạch, Khủng
nộ thương thận, Thận dương hư tổn, Â m hư
hoả vượng …và theo đó,
biện pháp trị liệu cũng không giống nhau. Ví như, với thể bệnh bất lực do Tâm
tỳ lưỡng hư (hai tạng Tâm và Tỳ cùng
hư tổn dẫn đến) thì phương thức trị liệu phải là Kiện tỳ dưỡng tâm, an thần định
chí và lấy cổ phương Quy tỳ thang làm bài thuốc chủ đạo để gia giảm.
Thực tế lâm sàng cho thấy,
không ít người ở vào độ tuổi 20 - 40 lâm vào tình trạng bất lực nhưng cơ thể vẫn
hoàn toàn khoẻ mạnh, không hề có các biểu hiện của hội chứng Thận hư (thận
theo quan niệm của đông y) như đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc,
răng long tóc rụng...Phần lớn nguyên nhân gây nên bất lực ở họ là do yếu tố tâm
lý tình cảm (tình chí uất kết) tác động trước hết đến các tạng như Can, Tâm và
Tỳ, tạo nên những thể bệnh như Can khí uất kết, Tâm tỳ lưỡng hư...
Thứ hai, là quan niệm
cho rằng chỉ cần dùng những vị thuốc và bài thuốc có công dụng bổ thận tráng dương
là có thể chữa khỏi bệnh bất lực, từ đó đi đến việc sùng bái thuốc tráng dương,
cường dương. Quan niệm sai lầm thứ hai này là hệ quả tất yếu của quan niệm thứ
nhất. Nhưng điều đáng nói là, trong khi bản thân người bệnh không có kiến thức
chuyên môn và đang rất hoang mang thì một số "lang băm" và người kinh
doanh đông dược lại vô tình hoặc cố ý khuếch đại một cách quá mức về công dụng
của thuốc bổ thận tráng dương khiến cho "con bệnh" vì quá tin mà lạm
dụng. Hậu quả là, bệnh trạng của người bệnh không những không được cải thiện mà
có khi còn trở nên tồi tệ hơn, thậm chí dẫn đến những tác dụng phụ không mong
muốn như căng thẳng thần kinh, mất ngủ, lở loét miệng, chảy máu chân răng, mụn
nhọt, khô miệng, tăng huyết áp...Đối với những người bị bệnh bất lực do dùng
tân dược để trị liệu cao huyết áp, bệnh lý mạch vành, đái đường... thì việc
dùng nhầm hoặc lạm dụng các thuốc cường dương, ôn nhiệt là hết sức nguy hiểm. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, nếu dùng kéo dài thuốc tráng dương có thể gây ức chế sự
hưng phấn của trục nội tiết Vùng dưới đồi - Tuyến yên - Tinh hoàn vốn có
vai trò rất lớn trong việc cường dương. Hơn nữa, lạm dụng thuốc tráng dương có
thể còn làm cho tuyến tiền liệt ở nam giới phì đại nhanh chóng và dễ dẫn đến trạng
thái ung thư hoá.
Cuối cùng, là quan niệm
cho rằng khi bị bất lực thì không nên sinh hoạt tình dục (tuyệt dục). Đương
nhiên, khi cơ thể suy yếu thì việc tiết dục là hết sức cần thiết để bảo tồn
tinh khí và giữ gìn sức khoẻ. Một con ngựa què thì đừng cố bắt nó leo dốc, nhất
là khi lại phải kéo một chiếc xe bánh vuông. Tuy nhiên, ngoại trừ những trường
hợp bị bất lực ở mức độ nặng, nghĩa là không thể "hành sự" được, còn
thì với mức độ nhẹ và vừa thì vẫn nên duy trì sinh hoạt tình dục với tần số
thích hợp dù cho tỉ lệ thành công không cao. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
vì không chỉ có tác dụng giải toả về mặt tâm lý mà còn tạo ra những kích thích
có tính hưng phấn rất cần cho sự phục hồi của bệnh trạng. Ngay cả với những trường
hợp bất lực ở mức độ nặng nếu như không có sự gần gũi với người khác giơí,
không có sự động viên, khích lệ, ve vuốt của người bạn đời thì dẫu cho thuốc có
hay đến mấy kết quả trị liệu cũng rất hạn chế. Khi có ham muốn tình dục nhưng lại
ở trong tình trạng một thời gian dài không phóng tinh thì sẽ phát sinh hậu quả
"ức chế tình dục". Theo y học cổ truyền, việc ái ân có thể khơi thông
ngũ tình, làm cho can khí thông suốt, tâm huyết điều đạt, tuyệt dục lâu ngày
thì can khí không điều hoà, khí huyết ứ trệ, từ đó mà không đạt được mục đích dưỡng
sinh. Bởi vậy, Cát Hồng, y gia trứ danh đời Tấn (Trung Quốc) đã nói : "Âm
dương bất giao, thương dã", nghĩa là : không giao hợp thì sẽ gây thương tổn.
Thiên "Liệt dương" sách Phùng thị cẩm nang bí lục (đời Thanh,
Trung Quốc) viết : "Dương uỷ hữu khốn ư cửu khoáng, mạch đạo bế tuyệt. Cái
lưu thuỷ bất ô, hộ xu bất hủ, vật chi thường giả...do đạo lộ chi dụ thân dụ cận,
nhật viễn nhật sơ dã" (liệt dương có cái khó ở thảnh thơi lâu, đường mạch
mất tiêu. Nói chung nước chảy không đục, cửa quay không mục, vật ấy bình thường...như
thân như gần con đường, vừa xa vừa lạ). Cấm dục lâu ngày sẽ làm cho tinh huyết ứ
tắc, dương vật không được nuôi dưỡng mà teo yếu đi. Sách Tố nữ kinh cũng
viết :"Ngọc kinh bất động, tắc bích kỳ xá, ứng thường hành khí đạo dẫn"
(dương vật bất động thì chết mất, phải thường thực hiện để nó khởi dậy).
Hoàng
Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét