NĂM MÙI, NÓI CHUYỆN CON DÊ LÀM THUỐC
Trong mươi năm gần đây, thịt dê bỗng trở
thành một thực phẩm thời thượng, đặc biệt với cánh đàn ông. Ngoài việc thưởng
thức các món ăn thông dụng chế từ thịt dê như dê tái chanh, dê nướng, dê xào lăn,
lẩu nầm dê…người ta còn thi nhau uống rượu tiết dê, rượu dương hoàn, rượu cao
dê toàn tính…với nhiều lý do khác nhau, trong đó có việc mong muốn cải thiện
tình trạng "dương sự" suy yếu. Điều đó đã nói lên phần nào giá trị
dinh dưỡng và chữa bệnh của các sản phẩm lấy từ con dê. Tuy nhiên, trong y học
cổ truyền, dê còn có nhiều công dụng hơn người ta tưởng và khi dùng cũng có một
số vấn đề cần phải hết sức lưu ý thì mới mong đạt được hiệu quả như mong muốn.
Có thể nói, việc sử dụng thịt và các sản
phẩm khác lấy từ con dê để chữa bệnh và nâng cao sức khỏe đã được ghi lại khá sớm
trong các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo tái tân, Kim qũy yếu lược,
Thiên kim phương, Ngoại đài bí yếu, Biệt lục, Nhật hoa tử bản thảo…Trong
sách Lĩnh nam bản thảo, đại danh y Hải Thượng Lãn Ông viết :
“ Dương nhục tục
gọi là thịt dê
Nóng nhiều, ngọt đắng, ích tâm tỳ
Bổ hư lao lạnh,
trừ kinh giản,
Phong, đầu
choáng, lưng đau, dương nuy.
Trong số những gia súc gần gũi với con người,
dê được thuần hoá khá sớm vào thời kỳ Đồ đá từ hai loại dê rừng Capra
aegagerus và Capra falconeri. Tuy dê rừng và dê nhà có một số
đặc điểm khác nhau, nhưng trên thực tế chữa trị bệnh tật, y học cổ truyền vẫn
thường sử dụng chung cả hai loại. Các bộ phận được dùng gồm có thịt dê (dương
nhục), da dê (dương bì), tim dê (dương tâm), gan dê (dương can), dạ dày dê (dương
đỗ), phổi dê (dương phế), thận dê (dương thận), tinh hoàn dê (dương thạch tử),
tuỵ dê (dương di), não dê (dương não), bàng quang dê (dương phao), tuyến giáp
trạng dê (dương diệp), thai dê (dương thai), tiết dê (dương huyết), mật dê (dương
đởm), mỡ dê (dương chi), xương dê (dương cốt), sữa dê (dương nhũ)…, thậm chí
râu dê (dương tu), sỏi túi mật dê (dương hoàng) cũng được dùng làm thuốc.
1 – Thịt dê
Vị ngọt, tính ấm
có công dụng bổ huyết ích khí, ôn trung noãn thận. Được dùng để chữa các chứng
thiếu máu, gầy yếu, suy nhược cơ thể, chán ăn, đau bụng do hư hàn, thận dương hư
gây nên đau lưng mỏi gối, liệt dương, di tinh, di niệu…Ví như, để chữa các chứng
suy nhược cơ thể, đau bụng do hư hàn…sách Kim quỹ yếu lược dùng thịt dê
250g thái miếng hầm thật nhừ với 30g đương quy và 15g sinh khương rồi chắt nước
cốt uống ; để chữa chứng tỳ vị hư nhược, chán ăn, nôn và buồn nôn do hư hàn
sách Ẩm thực chính yếu dùng thịt
dê 250g thái vụn rồi nấu với 180g gạo thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài
lần trong ngày ; để chữa chứng liệt dương, di tinh, di niệu, lưng đau gối mỏi
do thận dương hư sách Thực y tâm kính dùng 250g thịt dê luộc chín, thái
miếng, trộn dều với 15g tỏi giã nát và các gia vị khác vừa đủ rồi ăn…
2 – Gan dê
Vị ngọt, tính
bình có công dụng bổ huyết ích can và làm sáng mắt. Được dùng để chữa các chứng
thiếu máu, gầy còm, hoa mắt, suy giảm thị lực…do can hư. Ví như, để chữa chứng
suy nhược cơ thể, hoa mắt chóng mặt, thanh manh, thị lực giám sút do can huyết
hư, sách Bản thảo cương mục dùng gan dê 150g thái miếng nấu với 50g gạo tẻ thành cháo, chế đủ gia vị,
chia ăn vài lần trong ngày ; để chữa chứng can hoả vượng biểu hiện bởi các triệu
chứng đau đầu, hoa mắt chóng mặt, mắt đỏ…cổ nhân dùng gan dê 60g, cúc hoa 10g,
cốc tinh thảo 10g, tất cả sắc kỹ, bỏ bã lấy nước, chia uống 3 lần trong ngày.
3 - Thận dê
Còn gọi là nội
thận, vị ngọt, tính bình, có công dụng bổ thận khí, ích tinh tuỷ. Được dùng dể
chữa các chứng suy nhược cơ thể, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc, di tinh, di
niệu, liệt dương… do thận hư. Ví như, để chữa chứng liệt dương, xuất tinh sớm…cổ
nhân dùng thận dê 1 đôi làm sạch thái miếng, đem hầm với nhục thung dung 12g, kỷ
tử 10g, thục địa 10g và ba kích 8g được gói trong túi vải, khi chín bỏ bã thuốc,
chế thêm gia vị, ăn nóng ; để chữa chứng gầy yếu suy nhược, tai ù tai điếc, di
tinh, liệt dương, hậu sản hư lãnh, cổ nhân dùng thận dê 100g, thịt dê 100g, kỷ
tử 50g, gạo tẻ 50g, gia vị vừa đủ, tất cả đem nấu thành cháo, chia ăn vài lần ;
để chữa chứng đau lưng mạn tính, sách Trửu hậu bị cấp phương dùng thận
dê 1 đôi thái miếng hầm với đậu đen 60g, đỗ trọng 12g, tiểu hồi hương 3g, sinh
khương 3 lát, khi chín bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, chia ăn 2 lần trong ngày.
4 – Tinh hoàn dê
Còn gọi là ngoại thận, vị ngọt mặn, tình
bình, có công dụng bổ thận, tráng dương, ích tinh. Được dùng để chữa các chứng
di tinh, liệt dương, hạ bộ hư lãnh, thiểu năng sinh dục…Ví như, để chữa các chứng
đau lưng do thận hư, di tinh, liệt dương, tiêu khát (đái đường), khí hư, sa đì…cổ
nhân thường dùng tinh hoàn dê nấu cháo ăn thường xuyên ; để chữa bệnh liệt dương
dùng tinh hoàn dê 1 đôi và nhung hươu 3g ngâm với 500ml rượu trắng, sau nửa
tháng có thể dùng được, uống mỗi ngày từ 15 - 20 ml hoặc dùng tinh hoàn dê 1 đôi
làm sạch, bỏ màng, thái miếng, nấu với nước dùng xương lợn trong 5 phút, chế
thêm gia vị, ăn nóng.
5 - Dạ dày dê
Vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ hư, kiện
tỳ, ích vị. Được dùng để chữa các chứng suy nhược cơ thể, gầy mòn, đái đường,
chán ăn, tự ra mồ hôi nhiều, tiểu vặt…Ví như, để chữa bệnh viêm đại tràng và dạ
dày mạn tính thể tỳ vị hư hàn cổ nhân dùng dạ dày dê 1 cái hầm với gừng tươi,
giềng và nhục quế (lượng vừa đủ), chia ăn vài lần trong ngày ; để kiện tỳ, cố
biểu, liễm hãn dự phòng cho người dễ bị cảm mạo, hay đổ mồ hôi nhiều, cổ nhân
dùng dạ dày dê 1 cái hầm với 50g đậu đên và 40g hoàng kỳ, chia ăn 2 lần trong
ngày.
6 - Phổi dê
Vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ phế khí,
điều thủy đạo. được dùng dể chữa các chứng ho suyễn, đái đường, tiểu tiện không
thông hoặc đi nhiều lần.Ví như, để chữa chứng ho kéo dài do phế hư, tiểu tiện bất
lợi, sách Phổ tế phương dùng phổi dê 500g thái vụn luộc kỹ lấy nước
bỏ bã rồi cho thêm 150g thịt dê thái miếng và 100g gạo tẻ nấu nhừ thành cháo,
chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày ; để bổ phổi và phòng chống pôlíp mũi,
sách Thiên kim dực phương dùng phổi dê 1 lá, bạch truật 120g, nhục
thung dung 60g, thông thảo 60g, can khương 60g, xuyên khung 60g, tất cả sấy khô
tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần từ 5 - 10g với nước cháo.
7 – Xương dê
Vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận, cường
gân cốt. Được dùng để chữa các chứng suy nhược cơ thể, phong thấp, lưng đau gối
mỏi, tiêu khát, bệnh lỏng lỵ kéo dài…Ví như, để điều trị chứng phong thấp, gầy
yếu do lao lực, đầu choáng mắt hoa, sách Thiên kim dực phương dùng xương
dê 1000g hầm với 60g gạo tẻ thành cháo, chế thêm gia vị , chia ăn vài lần trong
ngày ; để chữa chứng đau lưng mạn tính, sách Ẩm thực chính yếu dùng xương
dê 1000g hầm với 6g trần bì, 6g giềng, 2 quả thảo quả và 30g gừng tươi, lấy nước
cốt nấu cháo ăn ; để chữa trẻ em chậm phát dục, sách Thái bình thánh huệ
phương dùng xương sống dê 500g hầm kỹ với 10g nhục dung và 100g hoài sơn
thành dạng bột lỏng, chia ăn vài lần.
8 – Tiết dê
Vị mặn, tính
bình, có công dụng chỉ huyết, khứ ứ. Được dùng để chữa các chứng nôn ra máu, chảy
máu cam, trĩ xuất huyết, băng huyết, xuất huyết do chấn thương trật đả…Ví như, để
chữa chứng thổ huyết, chảy máu cam, sách Thái bình thánh huệ phương dùng
tiết dê tươi cho uống 1 – 2 chén nhỏ ; để chữa trĩ xuất huyết, sách Tiện dân
thực liệu dùng tiết dê luộc chín ăn với dấm chua ; để cầm máu các vết thương,
cổ nhân dùng tiết dê đốt thành than 10 phần, tóc rối đốt thành than 10 phần, bột
hoàng cầm 2 phần, trộn đều rồi rắc và bó vết thương.
Ngoài ra, các bộ phân khác của con dê cũng
được cổ nhân sử dụng làm thuốc. Tim dê bổ tâm, giải uất chữa chứng đau tức,
hồi hộp đánh trống ngực ; tuỵ dê nhuận phế, chỉ đới chữa ho kinh niên,
khí hư ; bàng quang dê chữa di niệu ; tuyến giáp trạng dê chữa chứng
khí anh ( ngực đầy tức, họng như có dị vật khạc không được nuốt không trôi) ;da
dê ích khí bổ hư, làm ấm tỳ vị chữa chứng hư lao, lưng đau gối mỏi, sản hậu
hư lãnh ; sữa dê nhuận táo bổ hư trị các chứng suy nhược cơ thể, đái đường,
loét miệng, phản vị ; mật dê thanh hoả, minh mục, giải độc chữa đau mắt đỏ,
thổ huyết do lao, viêm họng cấp tính, hoàng đản, táo bón, viêm loét da do nhiễm
độc ; mỡ dê bổ hư, nhuận táo, khứ phong, hoá độc chữa hư lao, khô da, cửu
lỵ, nhọt độc ;
Tuy nhiên, theo
dinh dưỡng học cổ truyền, thịt dê nói riêng và các sản phẩm lấy từ dê nói chung
đều có tính ấm nóng cho nên những người thể chất thiên nhiệt và đang bị sốt do
cảm mạo không nên dùng.
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét