HOA CỎ
DƯỠNG SINH MÙA XUÂN
Mùa xuân là mùa trăm hoa đua nở, ngàn cỏ tốt tươi và cũng là lúc tốt
nhất để người đời thưởng lãm cỏ hoa mà dưỡng sinh bảo vệ và nâng cao sức khỏe,
phòng chống bệnh tật, làm đẹp và kéo dài tuổi thọ. Khi băng giá của mùa đông
vừa tan, những nụ hoa xuân đã kịp khoe biếc trên những cành cây tựa như những
chiếc chuông gió sớm báo tin Nàng Xuân đã đến rồi. Lúc này, cho dù “đài hoa
kim anh còn chút rét”, song chẳng bao lâu nữa cũng sẽ “muôn hồng nghàn
tía đầy vườn xuân”. Cho đến khi mùa xuân sắp qua, hoa sắp úa tàn thì “hoa
thơm muốn ướm áo xuân, khiến cả người nhàn cũng bận bịu theo”, “quốc sắc
ban mai say túy lúy, thiên hương chiều tối áo muôn màu”.
Hoa cỏ là tinh túy của trời đất, người ta yêu hoa, trồng hoa, khen hoa
và ngắm hoa là thể hiện sự ngưỡng mộ và khát vọng đối với cái đẹp. Muôn loài
hoa cỏ chẳng những là Thiên Sứ làm đẹp cho cuộc sống, làm sạch cho môi trường mà
còn là người bạn thân thiết để tô thắm tình cảm, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ
cho con người. Hoa cỏ có lợi đối với sức khoẻ trên nhiều phương diện. Sắc hoa
tươi thắm, dáng hoa yêu kiều, hương hoa ngào ngạt khiến người trồng hoa và
thưởng hoa cảm nhận được bao điều thích thú, tìm thấy sự thư thái, thanh thản
trong tâm hồn, quên đi những nỗi ưu phiền trong cuộc sống thường nhật. Trong
hương thơm của cỏ hoa còn chứa khá nhiều tinh dầu, những chất có thể làm sạch
không khí, kháng khuẩn tiệt trùng. Mỗi loài hoa cỏ khác nhau có chứa những loại
dầu thơm không giống nhau. Khi mùi hương của dầu thơm tiếp xúc với các tế bào
niêm mạc trong khoang mũi, ngay lập tức nó được truyền qua dây thần kinh khứu
giác lên bán cầu đại não làm phát sinh ra cảm giác “thấm tận tim gan”,
rồi thông qua đó mà điều hoà âm dương, lưu thông khí huyết, làm cho tinh thần trở
nên phấn chấn, cơ quan tạng phủ trong nhân thể được kích hoạt một cách hết sức
tự nhiên. Ngày xuân, khi những khóm hoa tự tay bạn trồng nảy mầm đội đất chui
lên, mọc lá ra cành, đơm hoa kết nụ và toả hương thơm ngây ngất, biết bao khoái
cảm sẽ nảy sinh trong lòng ! Thật khó có thể kể hết các loài hoa cỏ mùa xuân,
nhiều loại chúng ta đã biết, đã trồng, nhưng cũng còn những loài ta chưa hiểu
một cách tường tận về lai lịch và công dụng của chúng. Ví như :
Hoa thủy tiên : Thủy tiên là loài cây thuộc họ tỏi, có hai
loại hoa đơn và hoa kép. Những ngày cuối năm, mua được mấy dò thuỷ tiên, bóc đi
lớp vẩy chồi, giâm trong chậu cảnh, chỉ cần có nước lã, ánh sáng mặt trời và
đảm bảo nhiệt độ trong phòng từ 15 - 20oC là sau khoảng một tháng
cây sẽ đâm chồi ngọc rồi khai hoa vào ngày tết
với dáng vẻ thanh tú mê hồn, hương thơm qúy phái ngây ngất. Vì hoa thủy
tiên nở trong chậu men đầy nước, mềm mại
óng nuột như tiên nữ lượn bay trên mặt hồ, cho nên nó còn được gọi là “Lăng
ba tiên tử”. Cũng có người giải thích rằng : “thuỷ” là nước, “tiên”
là cô tiên, vì đây là thứ hoa đẹp và trong trắng như cô tiên đang tắm dưới làn
nước, mà lại tắm trần nữa chứ ! Cũng có người thạo chữ Hán thì lại giảng rằng :
“thuỷ” là nước ; “tiên” là do chữ “nhân” ghép với chữ “sơn”, có nghĩa là người
trên núi, mà người ở trên núi thì chỉ có là tiên mà thôi ; người trần được ngắm
tiên thì còn gì sung sướng bằng !
Theo dược học cổ truyền, hoa thuỷ tiên vị
đạm, tính mát ; rễ cây hoa vị cay đắng, tính lạnh ; có công dụng khứ phong
thanh nhiệt, hoạt huyết điều kinh, tiêu thũng giải độc ; được dùng để chữa các
chứng bệnh như kinh nguyệt không đều, phụ nữ ngũ tâm phiền nhiệt (nóng lòng bàn
tay, bàn chân và vùng giữa ngực), mụn nhọt, viêm loét, viêm tuyến vú, quai bị,
viêm hạch…Y thư cổ Bản thảo cương mục cho rằng, hoa thuỷ
tiên có công năng “khứ phong khí”. Thường được dùng dưới dạng tươi hoặc khô,
uống trong với liều từ 3 - 6g, dùng ngoài giã nát đắp hoặc nấu nước rửa. Củ cây
thủy tiên có tác dụng giảm đau rất tốt. Lấy củ giã nát đắp vào chỗ đau, có thể
chữa được mụn nhọt, đinh độc. Trong dân gian thường dùng củ thuỷ tiên để chữa ung
thư tuyến vú. Tuy nhiên, vì có độc, củ thủy tiên chỉ được dùng ngoài.
Hoa tầm xuân : Tầm xuân
thuộc loài cây nhỏ họ quế hoa, thân cành mềm mại, có thể đan tết thành nhiều
hình dạng khác nhau theo ý muốn. Có thể đặt ở phòng khách, phòng sách, với vẻ
cổ kính và tao nhã sẽ làm tăng thêm vẻ xuân sắc cho căn nhà. Dùng hoa tầm xuân
để trang trí cho hành lang mái hiên là hợp lý nhất. Mùa xuân thì thưởng hoa,
mùa hè thì ngắm cành lá. Cành lá tầm xuân rủ xuống đung đưa theo gió tạo nên
cảnh sắc đầy khêu gợi. Theo quan niệm của y học cổ truyền, tầm xuân có công
dụng thanh nhiệt lợi thấp, trừ phong, hoạt huyết chỉ huyết, giải độc giảm đau,
thường được dùng để chữa các chứng bệnh như hoàng đản, thuỷ thũng, lỵ tật, tiêu
khát, bĩ tích, đái dầm ở trẻ em...
Tuỳ theo từng bộ phận của tầm xuân mà tác
dụng chữa bệnh cũng có những đặc điểm khác nhau. Ví như, hoa dùng để chữa các
chứng bệnh như : (1) Cảm nắng, cảm nóng vào mùa hạ có các triệu chứng tức ngực,
buồn nôn và nôn, có thể có nôn ra máu, môi khô miệng khát, chán ăn, mệt mỏi
dùng hoa tầm xuân 3 - 9g sắc uống hoặc hoa tầm xuân 5g, thiên hoa phấn 10g,
sinh thạch cao 30g, mạch môn 15g, sắc uống hoặc hoa tầm xuân 10g và hoa đậu ván
trắng 10, hãm với nước sôi, chế thêm một chút đường phèn, uống thay trà (2) Nôn
ra máu và chảy máu cam dùng hoa tầm xuân 6g, bạch cập 15g và rễ cỏ tranh 30g,
sắc uống. (3) Ngược tật (sốt rét) dùng hoa tầm xuân sắc uống thay trà. (4) Bướu
tuyến giáp dùng hoa tầm xuân 5g, hoa hậuphác 5g, hoa chỉ xác 5g và hoa hồng 5g,
sắc uống. (5) Đái đường và viêm loét niêm mạc miệng mạn tính dùng sương đọng
trên hoa tầm xuân vào buổi sớm 30 ml pha chut nước ấm uống hàng ngày. Lá có tác
dụng sinh cơ và làm liền nhanh vết thương. Ví dụ : (1) Ung nhọt làm mủ chưa
loét dùng lá tầm xuân sấy khô tán bột, trộn với mật ong và dấm đắp lên tổn
thương. (2) Viêm loét chi dưới dùng lá tầm xuân không kể liều lượng nấu nước
rửa vết thương. (3) Nhọt độc sưng nề nhiều dùng lá và cành non tầm xuân rửa sạch,
giã nát với một chút muối ăn rồi đắp lên tổn thương. Rễ vị đắng hơi sáp, tính
bình, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, trừ phong, hoạt huyết và giải độc,
được dùng để chữa nhiều chứng bệnh như : (1) Liệt mặt và di chứng liệt nửa
người do cao huyết áp dùng rễ tầm xuân 15 - 30g sắc uống. (2) Chảy máu cam mạn
tính dùng vỏ rễ tầm xuân 60g hầm với thịt vịt già ăn. (3) Ghẻ về mùa hè dùng rễ
tầm xuân tươi sắc uống thay trà. (4) Đau răng và viêm loét miệng dùng rễ tầm
xuân sắc uống hoặc ngậm. (5) Viêm khớp, liệt bại nửa người, kinh nguyệt không
đều, khí hư và tiểu tiện không tự chủ dùng rễ tầm xuân 15 - 30g sắc uống. (6)
Hoàng đản (vàng da do nhiều nguyên nhân) dùng rễ tầm xuân 15 - 24g hầm với 60g
thịt lợn nạc, chế thêm một chút rượu vang, chia ăn vài lần trong ngày. (7) Đái
dầm trẻ em, người già đi tiểu đêm nhiều lần dùng rễ tầm xuân 30g sắc uống hoặc
hầm với thịt lợn ăn. (8) Phế ung (áp xe phổi) dùng rễ tầm xuân 15g, hạt bí đao
30g, ý dĩ 30g, sắc uống. (9) Thương tổn do trật đả và trĩ xuất huyết dùng rễ tầm
xuân tươi 30g rửa sạch, giã vắt nước cốt uống. (10) Vết thương chảy máu dùng rễ
tầm xuân lượng vừa đủ, sấy khô tán bột rắc vào tổn thương, cũng có thể trộn với
dầu vừng để đắp. (11) Rong huyết dùng rễ tầm xuân 30g, ngải cứu già đốt tồn
tính 10g, cỏ nhọ nồi 30g, tiên hạc thảo 30g, sắc uống hàng ngày. (12) Bỏng dùng
rễ tầm xuân tươi nấu nước rửa hàng ngày hoặc bột rễ tầm xuân trộn với dầu vừng
đắp. Quả vị chua, tính ấm, có công dụng lợi tiểu thanh nhiệt, hoạt huyết giải
độc. Được dùng để chữa các chứng bệnh như : (1) Phù do viêm thận dùng quả tầm
xuân 3 - 6g, hồng táo 3 quả sắc uống hoặc quả tầm xuân 20g, đại hoàng 3g, sắc
chia uống 3 lần trong ngày. (2) Tiểu tiện khó khăn dùng quả tầm xuân 10g, mã đề
30g và biển súc 30g, sắc uống. (3) Đau bụng khi hành kinh dùng quả tầm xuân
120g sắc lấy nước hoà thêm một chút đường và rượu vang uống ấm. (4) Táo bón
dùng quả tầm xuân 10g, đại hoàng 3g, sắc uống.
Hoa trà my : Trà my là loài thảo mộc thân gỗ, hoa nở vào
cuối đông đầu xuân, kéo dài hàng tháng, để lâu không héo tàn, búp hoa to, màu
sắc rực rỡ, màu đỏ như ráng sớm, màu vàng như vàng mười, màu trắng như tuyết, màu
phớt đỏ tựa cánh đào, sắc màu tươi tắn khiến ai thoáng thấy cũng phải đắm say.
Theo dược học cổ truyền, hoa trà my vị ngọt đắng, tính mát, có công dụng lương
huyết, chỉ huyết và tán ứ, dùng để chữa
các chứng thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, kiết lị ra máu, bị bỏng, tổn
thương do trật đả và các bệnh lý da liễu. Ví như, dùng hoa trà 12g, than lá
ngải 12g, tiên hạc thảo 15g, sắc uống để trị băng huyết ở phụ nữ ; hoa trà lượng
vừa phải, nghiền thành bột mịn, cho nước hoặc dấm ăn vào trộn đều rồi bôi ngoài
da để chữa các vết thương hoặc trộn với dầu vừng để chữa bỏng.
Cây liễu : Ngày xuân, cây liễu nảy cành non, theo gió xuân
nhè nhẹ cành liễu thướt tha đẹp đến mê hồn. Xưa kia, cứ mỗi khi tiết Thanh Minh
đến, người ta có lệ đeo cành liễu non cho trẻ em. Ngạn ngữ có câu: “Thanh
Minh không đeo cành liễu, má hồng thành tóc bạc phơ”, ý nói đến công dụng
của cành liễu đối với việc bảo vệ sức khoẻ. Vào đời Đường ở Trung Quốc, hàng
năm cứ đến ngày Mồng Ba tháng Ba, khi cử hành các nghi thức tế lễ bên sông Vị Dương, gọi là Phất
khế, Đường Cao Tông thường ban tặng cho quần thần mỗi người một vòng liễu
để “có thể tránh được nọc độc bọ cạp”. Liễu là một vị thuốc Đông y
truyền thống có công dụng thanh nhiệt giải độc, thấu chẩn lợi niệu. Đem cành
liễu sắc lên làm thang mà tắm có thể chữa được bệnh phong thũng, nhọt đầu đinh,
đơn độc...Lá liễu và cành liễu còn được dùng để chữa viêm gan vàng da.
Hoa ngọc lan : Ngọc lan là
loài thân gỗ thuộc họ mộc lan, có hoa màu trắng tinh khiết như ngọc, hương thơm
nhẹ nhàng man mác, cho nên từ cổ xưa đã được gọi một cách tao nhã là hoa “ngọc
lan”. Thi nhân Trương Mậu Ngô, đời Minh (Trung Quốc) có câu thơ rằng: “Đã có một cành xinh tựa
ngọc, cần chi chín mẫu ủ chồi lan?”, trong đó đã khéo léo đưa hai chữ “ngọc
lan” vào thơ. Từ xa xưa, ngọc lan đã được coi là biểu tượng của sự trinh
trắng và tốt lành, đồng thời còn được dùng làm thuốc để phòng chống bệnh tật.
Ngọc lan có nhiều chủng loại, trong đó có một loài nhỏ bé xinh xắn, màu phớt
tím nên gọi là ngọc lan tím hay tân di, vì trên búp hoa khô của nó có lớp lông
tơ màu vàng kim, cho nên còn gọi là bút mộc. Theo dược học cổ truyền, tân di vị
cay tính ấm, có tác dụng thông tị khiếu, tán phong hàn. Nhà bác học Lý Thời
Trân trong cuốn “Bản thảo cương mục” đã viết : “Hoa tân di chủ yếu
chữa các chứng về ngũ tạng, thân thể hàn nhiệt, đầu phong não thống, tị uyên,
chảy máu cam, loét mũi...”, là vị thuốc chuyên dùng để chữa các chứng bệnh
về mũi trong Đông y. Người ta thường hái tân di khi còn là nụ chưa nở thành hoa
phơi khô để dùng dần, khi dùng thì pha vào nước sôi như pha trà mà uống.
Hạnh hoa (hoa mơ) : Vào tháng hai, cành mơ bắt đầu nảy lộc, hoa
mơ (hạnh hoa) nở bung, từng đoá hoa nho
nhỏ, màu trắng phớt hồng, mỉm cười chúm chím, tắm sương gội gió trông thật
thích mắt. Người ta thường coi hoa mơ là tượng trưng của mùa xuân. Từ xưa đến nay
vẫn lưu truyền những giai ngôn tuyệt cú về hoa mơ như: “Xuân sắc đầy vườn
che chẳng thấu, một cành hồng hạnh ló đầu tường”, “ý xuân rộn rã đậu
cành mơ” và truyền thuyết về “rừng mơ” lại có quan hệ hết sức mật thiết với
Đông y. Tương truyền, Đổng Phụng, người nước Ngô thời Tam Quốc ẩn cư ở núi Lư
Sơn, chuyên chữa bệnh cứu người mà lại không bao giờ lấy tiền công, chỉ cần
người bệnh nặng trồng 5 cây mơ, người bệnh nhẹ trồng 1 cây mơ để báo đáp. Sau
nhiều năm như thế, số người được chữa trị rất đông nên số cây mơ trồng được đã
lên đến hơn mười vạn gốc, tươi tốt thành rừng. Đổng Phụng dựa vào rừng mơ có
được mà cứu tế chữa trị miễn phí cho người nghèo, nên đã được đời sau ca tụng
là thầy lang có đức hạnh. Hạnh hoa vị đắng, tính ôn và không độc, có công dụng
bổ huyết và làm đẹp, thường được dùng để chữa vô sinh ở phụ nữ và các chứng
bệnh về da liễu...
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét