Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

Sinh mạch tá, một bài thuốc quý

SINH MẠCH TÁN, MỘT BÀI THUỐC QUÝ


                                                             ThS Hoàng Khánh Toàn

     Sinh mạch tán (SMT) do Trương Nguyên Tố, tự Khiết Cổ, y gia trứ danh đời Kim (Trung Quốc), người sáng lập họa phái “Dịch thủy” chế ra và được ghi lại trong sách “Y học khải nguyên” nổi tiếng của Ông. Nó là một trong những bài thuốc điển hình của phép ích khí dưỡng âm chuyên dùng để chữa chứng khí âm lưỡng hư trong y học cổ truyền phương Đông. Ngày nay, bằng phương pháp nghiên cứu khoa học của y học hiện đại, người ta đã chứng minh phương thang này có khả năng chữa trị được khá nhiều loại bệnh như viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, bệnh lý động mạch vành tim, hội chứng yếu nút xoang, tâm phế mạn tính, viêm phế quản mạn tính, khí phế thũng, choáng do các nguyên nhân, xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu nguyên phát, viêm kết trạng mạn tính...

1. Thành phần và cách dùng
     Sinh mạch tán được cấu thành bởi ba vị thuốc là nhân sâm 6-9g, mạch môn 9-15g và ngũ vị tử 6-9g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hiện nay, còn được sử dụng dưới dạng trà thuốc, dịch thuốc uống và tiêm truyền đường tĩnh mạch. Dịch thuốc uống được gọi là “Sinh mạch ẩm”, mõi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10ml. Dịch thuốc tiêm được gọi là “Sinh mạch hoặc Sâm mạch chú xạ dịch” dùng tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch

2. Công dụng và chủ trị
      Theo y thư cổ, SMT có công dụng ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hãn, được dùng để chữa các chứng khí âm bất túc gây ra mồ hôi nhiều, mệt mỏi, khó thở, ngại nói, họng khô miệng khát ; hoa lâu ngày do phế hư làm thương tân tổn tkhí, đàm ít, thở ngắn, tự đổ mồ hôi, nạch hư hoặc chứng tâm căn suy nhược (suy nhược thần kinh) thể âm hư gây tâm phiền, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, háo khát, táo bón...
     Trang phương, nhân sâm đại bổ nguyên khí là quân ; mạch môn dưỡng âm sinh tân, thanh nhiệt trừ phiền là thần ; ngũ vị tử liễm phế chỉ hãn là tá và sứ. Ba vị tương hợp, một bổ, một thanh, một liễm tạo nên công năng ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hãn của bài thuốc.

3. Nghiên cứu dược lý
     Trên thực nghiệm và lâm sàng, kết quả nghiên cứu cho thấy, SMT có tác dụng tăng cường sức co bóp cơ tim, làm giãn hệ thông huyết quản ở một mức độ nhất định, từ đó làm giảm sức cản ngoại vi và cải thiện chức năng tống máu của tim một cách rõ rệt thông qua cơ chế ức chế hoạt tính của men ATPase trong tế bào cơ tim và làm giảm nồng độ AMP vòng trong huyết tương. Tuy nhiên. đối với tim bình thường tác dụng cường tim của SMT rất yếu hoặc không có. Thêm nữa, bài thuốc này còn có tác dụng làm giãn và tăng cường lưu lượng động mạch vành tim vì vậy trên lâm sàng hiệu quả điều trị của nó đối với các bệnh lý động mạch vành tim là rất có ý nghĩa. vả lại, SMT còn có khả năng nâng cao năng lực chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu dưỡng khí, làm giảm lượng ôxy tiêu thụ của cơ tim, thúc đẩy quá trình tổng hợp DNA trong tế bào tâm tạng. Bởi vậy, ngoài hiệu quả đối với bệnh lý mạch vành nó còn có khả năng chống rối loạn nhịp tim khá tốt.
     Mặt khác, SMT còn có tác dụng điều tiết huyết áp và cải thiện tình tạng rối loạn vi tuần hoàn trên thực nghiệm cũng như lâm sàng, kết quả các nghiên cứu đều cho thấy, trong trạng thái choáng do bất cứ nguyên nhân nào, bài thuốc này đều có hiệu quả bảo hộ rõ rệt. Ngoài ra, SMT còn làm tăng hoạt tính của men succinate dehydrogenase, hàm lượng glucogen và acid ribonucleic trong tế bào gan. Đồng thời cũng có tác dụng chống động máu ở một mức độ nhất định.

4. Ứng dụng lâm sàng
* Đối với tình trạng choáng : một nghiên cứu sử dụng SMT phối hợp với Tư nghịch thang đều dưới dạng tiêm để điều trị 70 ca choáng, trong đó có 57 ca choáng tim, 9 ca choáng truyền nhiễm và 4 ca chonags mất máu. Sinh mạch tán được tiêm bắp mỗi lần 2-4ml, 2-4 giờ 1 lần hoặc pha 30-50ml trong 500ml glucose 10% truyền tĩnh mạch, đạt hiệu quả 87,19%.
* Đối với bệnh lý động mạch vành tim : một nhóm chuyên gia bệnh lý mạch vành thuộc Viện n ghiên cứu Trung y Quảng Đông (Trung Quốc) đã dùng SMT gia sơn thù, hà thủ ô, đan sâm và đại táo trị liệu 114 ca. Kết quả sau 90 ngày dùng thuốc có 69,74% hết tình trạng đau thắt ngực, 53,09% có sự cải thiện rõ rệt trên điện tim. Người ta còn phối hợp bài thuốc này với mao đông thanh tiêm bắp, mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần 4 ml, kết quả sau 60 ngày 94,43% hết đau ngực, 66,66% có sự cải thiện rõ rệt trên điện tâm đồ.
* Đối với rối loạn nhịp tim : một nghiên cứu sử dụng SMT gia hoàng kỳ, đan sâm, quế chi, đương quy và chích thảo trị liệu 30 ca rối loạn nhịp tim, trong đó 16 ca do bệnh mạch vành, 11 ca do viêm cơ tim, 3 ca do bệnh lý tuyến giáp. Kết quả, sau 7-120 ngày dùng thuốc 17 ca khỏi, 8 ca có chuyển biến rõ rệt, 5 ca không có tác dụng, đạt hiệu quả 80%.
* Đối với hội chứng yếu nút xoang : có tác giả đã dùng SMT gia hoàng kỳ, đan sâm, bá tử nhân, viễn trí, ma hoàng và tế tân trị liệu 37ca đạt hiệu quả 89,16%. Một nghiên cứu khác dùng bài thuốc này gia phụ tử chế, can khương, chích thảo, đan sâm, đương quy và phá cố chỉ điều trị 30 ca, sau 30-90 ngày dùng thuốc có 8 ca khỏi bệnh, 14 ca có chuyển biến rõ rệt và 8 ca thất bại, đạt hiệu quả 73,3%.
* Đối với viêm cơ tim : một nghiên cứu dùng SMT gia hoàng kỳ phối hợp với Chu sa an thần hoàn trị liệu 18 ca, kết quả khỏi 13 ca, có hiệu quả 5 ca.
* Đối với tâm phế mạn tính : có tác giả đã dùng SMT gia trầm hương và đan sâm điều trị 32 ca. Kết quả sau 15-30 ngày dùng thuốc, 18 ca khỏi bệnh, 12 ca có chuyển biến rõ rệt và 2 ca thất bại.
* Đối với xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu nguyên phát : một nghiên cứu dùng SMT gia a giao, tam thất phấn, ngẫu tiết thán, đương quy và cam thảo trị liệu 12 ca, sau 30-90 ngày dùng thuốc tất cả đều khỏi bệnh, theo dõi sau 1 năm cũng không thấy tái phát.
* Đối với viêm kết tràng mạn tính : có tác giả dùng SMT gia hoài sơn, biển đậu, quế chi, bạch thược và cam thảo điều trị 37 ca, kết quả sau 20 ngày dùng thuốc tỉ lệ đạt hiệu quả là 89,2%.
* Đối với chứng ra nhiều mồ hôi : một nghiên cứu dùng SMT gia hoàng kỳ, mẫu lệ, bạch thược, bạch truật, phù tiểu mạch, phòng phong và hoài sơn điều trị 50 ca đạo hãn và tự hãn, chỉ sau 3-6 ngày dùng thuốc 43 ca khỏi bệnh, 7 ca có chuyển biến rõ rệt.
     Có thể thấy, SMT là một phương thang rất đơn giản về cấu trúc nhưng phạm vi sử dụng trên lâm sàng khá rộng rãi, hiệu quả điều trị tương đối tốt nếu như biết cách gia vị và phối hợp với các phương thang khác một cách hợp lý. Bài thuốc này rất cần được lưu tâm nghiên cứu sâu thêm về cả thực nghiệm và lâm sàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Ngô Hồng Châu. Nghiên cứu và ứng dụng trung y dược hiện đại. NXB Đại học Trung y dược Thượng Hải, 1996 : 215-217
2. Dương Đức Tài, Lưu Tổ Phát. Bệnh tâm não. NXB Tài liệu Khoa học và Kỹ thuật Thượng Hải, 1999

3. Lưu Vĩnh Xương. Trung tây y trị liệu bệnh lý mạch máu tim não. NXB Trung y dược Trung Quốc, 1996 : 437-448

2 nhận xét: