SINH MẠCH TÁN, MỘT BÀI THUỐC QUÝ
ThS Hoàng Khánh Toàn
Sinh
mạch tán (SMT) do Trương Nguyên Tố, tự Khiết Cổ, y gia trứ danh đời Kim
(Trung Quốc), người sáng lập họa phái “Dịch thủy” chế ra và được ghi
lại trong sách “Y học khải nguyên” nổi tiếng của Ông. Nó là một trong
những bài thuốc điển hình của phép ích khí dưỡng âm chuyên dùng để
chữa chứng khí âm lưỡng hư trong y học cổ truyền phương Đông. Ngày nay,
bằng phương pháp nghiên cứu khoa học của y học hiện đại, người ta đã
chứng minh phương thang này có khả năng chữa trị được khá nhiều loại
bệnh như viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, bệnh lý động mạch vành tim,
hội chứng yếu nút xoang, tâm phế mạn tính, viêm phế quản mạn tính,
khí phế thũng, choáng do các nguyên nhân, xuất huyết dưới da do giảm
tiểu cầu nguyên phát, viêm kết trạng mạn tính...
1. Thành
phần và cách dùng
Sinh mạch
tán được cấu thành bởi ba vị thuốc là nhân sâm 6-9g, mạch môn 9-15g
và ngũ vị tử 6-9g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hiện nay, còn được sử
dụng dưới dạng trà thuốc, dịch thuốc uống và tiêm truyền đường tĩnh
mạch. Dịch thuốc uống được gọi là “Sinh mạch ẩm”, mõi ngày uống 2-3
lần, mỗi lần 10ml. Dịch thuốc tiêm được gọi là “Sinh mạch hoặc Sâm
mạch chú xạ dịch” dùng tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch
2. Công
dụng và chủ trị
Theo y thư
cổ, SMT có công dụng ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hãn, được dùng để
chữa các chứng khí âm bất túc gây ra mồ hôi nhiều, mệt mỏi, khó
thở, ngại nói, họng khô miệng khát ; hoa lâu ngày do phế hư làm thương
tân tổn tkhí, đàm ít, thở ngắn, tự đổ mồ hôi, nạch hư hoặc chứng
tâm căn suy nhược (suy nhược thần kinh) thể âm hư gây tâm phiền, mất
ngủ, đau đầu, chóng mặt, háo khát, táo bón...
Trang
phương, nhân sâm đại bổ nguyên khí là quân ; mạch môn dưỡng âm sinh tân,
thanh nhiệt trừ phiền là thần ; ngũ vị tử liễm phế chỉ hãn là tá
và sứ. Ba vị tương hợp, một bổ, một thanh, một liễm tạo nên công năng
ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hãn của bài thuốc.
3. Nghiên
cứu dược lý
Trên thực
nghiệm và lâm sàng, kết quả nghiên cứu cho thấy, SMT có tác dụng tăng
cường sức co bóp cơ tim, làm giãn hệ thông huyết quản ở một mức độ
nhất định, từ đó làm giảm sức cản ngoại vi và cải thiện chức năng
tống máu của tim một cách rõ rệt thông qua cơ chế ức chế hoạt tính
của men ATPase trong tế bào cơ tim và làm giảm nồng độ AMP vòng trong
huyết tương. Tuy nhiên. đối với tim bình thường tác dụng cường tim của
SMT rất yếu hoặc không có. Thêm nữa, bài thuốc này còn có tác dụng
làm giãn và tăng cường lưu lượng động mạch vành tim vì vậy trên lâm
sàng hiệu quả điều trị của nó đối với các bệnh lý động mạch vành
tim là rất có ý nghĩa. vả lại, SMT còn có khả năng nâng cao năng lực
chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu dưỡng khí, làm giảm
lượng ôxy tiêu thụ của cơ tim, thúc đẩy quá trình tổng hợp DNA trong
tế bào tâm tạng. Bởi vậy, ngoài hiệu quả đối với bệnh lý mạch
vành nó còn có khả năng chống rối loạn nhịp tim khá tốt.
Mặt khác,
SMT còn có tác dụng điều tiết huyết áp và cải thiện tình tạng rối
loạn vi tuần hoàn trên thực nghiệm cũng như lâm sàng, kết quả các
nghiên cứu đều cho thấy, trong trạng thái choáng do bất cứ nguyên nhân
nào, bài thuốc này đều có hiệu quả bảo hộ rõ rệt. Ngoài ra, SMT
còn làm tăng hoạt tính của men succinate dehydrogenase, hàm lượng
glucogen và acid ribonucleic trong tế bào gan. Đồng thời cũng có tác
dụng chống động máu ở một mức độ nhất định.
4. Ứng
dụng lâm sàng
* Đối với tình trạng
choáng : một nghiên cứu sử dụng SMT phối hợp với Tư nghịch thang đều
dưới dạng tiêm để điều trị 70 ca choáng, trong đó có 57 ca choáng tim,
9 ca choáng truyền nhiễm và 4 ca chonags mất máu. Sinh mạch tán được
tiêm bắp mỗi lần 2-4ml, 2-4 giờ 1 lần hoặc pha 30-50ml trong 500ml
glucose 10% truyền tĩnh mạch, đạt hiệu quả 87,19%.
* Đối với bệnh lý động
mạch vành tim : một nhóm chuyên gia bệnh lý mạch vành thuộc Viện n
ghiên cứu Trung y Quảng Đông (Trung Quốc) đã dùng SMT gia sơn thù, hà
thủ ô, đan sâm và đại táo trị liệu 114 ca. Kết quả sau 90 ngày dùng
thuốc có 69,74% hết tình trạng đau thắt ngực, 53,09% có sự cải thiện
rõ rệt trên điện tim. Người ta còn phối hợp bài thuốc này với mao
đông thanh tiêm bắp, mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần 4 ml, kết quả sau 60
ngày 94,43% hết đau ngực, 66,66% có sự cải thiện rõ rệt trên điện tâm
đồ.
* Đối với rối loạn nhịp
tim : một nghiên cứu sử dụng SMT gia hoàng kỳ, đan sâm, quế chi, đương
quy và chích thảo trị liệu 30 ca rối loạn nhịp tim, trong đó 16 ca do
bệnh mạch vành, 11 ca do viêm cơ tim, 3 ca do bệnh lý tuyến giáp. Kết
quả, sau 7-120 ngày dùng thuốc 17 ca khỏi, 8 ca có chuyển biến rõ
rệt, 5 ca không có tác dụng, đạt hiệu quả 80%.
* Đối với hội chứng yếu
nút xoang : có tác giả đã dùng SMT gia hoàng kỳ, đan sâm, bá tử nhân,
viễn trí, ma hoàng và tế tân trị liệu 37ca đạt hiệu quả 89,16%. Một
nghiên cứu khác dùng bài thuốc này gia phụ tử chế, can khương, chích
thảo, đan sâm, đương quy và phá cố chỉ điều trị 30 ca, sau 30-90 ngày
dùng thuốc có 8 ca khỏi bệnh, 14 ca có chuyển biến rõ rệt và 8 ca
thất bại, đạt hiệu quả 73,3%.
* Đối với viêm cơ tim :
một nghiên cứu dùng SMT gia hoàng kỳ phối hợp với Chu sa an thần hoàn
trị liệu 18 ca, kết quả khỏi 13 ca, có hiệu quả 5 ca.
* Đối với tâm phế mạn
tính : có tác giả đã dùng SMT gia trầm hương và đan sâm điều trị 32
ca. Kết quả sau 15-30 ngày dùng thuốc, 18 ca khỏi bệnh, 12 ca có
chuyển biến rõ rệt và 2 ca thất bại.
* Đối với xuất huyết
dưới da do giảm tiểu cầu nguyên phát : một nghiên cứu dùng SMT gia a
giao, tam thất phấn, ngẫu tiết thán, đương quy và cam thảo trị liệu 12
ca, sau 30-90 ngày dùng thuốc tất cả đều khỏi bệnh, theo dõi sau 1 năm
cũng không thấy tái phát.
* Đối với viêm kết tràng
mạn tính : có tác giả dùng SMT gia hoài sơn, biển đậu, quế chi, bạch
thược và cam thảo điều trị 37 ca, kết quả sau 20 ngày dùng thuốc tỉ
lệ đạt hiệu quả là 89,2%.
* Đối với chứng ra nhiều
mồ hôi : một nghiên cứu dùng SMT gia hoàng kỳ, mẫu lệ, bạch thược,
bạch truật, phù tiểu mạch, phòng phong và hoài sơn điều trị 50 ca
đạo hãn và tự hãn, chỉ sau 3-6 ngày dùng thuốc 43 ca khỏi bệnh, 7 ca
có chuyển biến rõ rệt.
Có thể
thấy, SMT là một phương thang rất đơn giản về cấu trúc nhưng phạm vi
sử dụng trên lâm sàng khá rộng rãi, hiệu quả điều trị tương đối tốt
nếu như biết cách gia vị và phối hợp với các phương thang khác một
cách hợp lý. Bài thuốc này rất cần được lưu tâm nghiên cứu sâu thêm
về cả thực nghiệm và lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Ngô Hồng
Châu. Nghiên cứu và ứng dụng trung y dược hiện đại. NXB Đại học Trung
y dược Thượng Hải, 1996 : 215-217
2. Dương
Đức Tài, Lưu Tổ Phát. Bệnh tâm não. NXB Tài liệu Khoa học và Kỹ
thuật Thượng Hải, 1999
3. Lưu Vĩnh
Xương. Trung tây y trị liệu bệnh lý mạch máu tim não. NXB Trung y dược
Trung Quốc, 1996 : 437-448
Cảm ơn bác đã chia sẽ những bài thuốc Đông y cho mọi người.
Trả lờiXóaBác toàn ơi có bài thuốc nào Chữa ung thư không ạ.
Trả lờiXóa