TÁC DỤNG CHỮA BỆNH CỦA CÂY MẬT
GẤU
Cây mật gấu với tên gọi khác là cây Hoàng liên ô rô
hay cây mã rồ. Đây là loại cây mang nhiều tác dụng chữa bệnh rất hiệu quả. Loài
này mọc hoang nhiều ở các tỉnh vùng núi phía bắc có khí hậu mát mẻ như Cao Bằng,
Bắc Cạn, Lạng Sơn… Ở miền nam hay miền trung, do khí hậu không thích hợp
nên cây mật gấu vẫn
có thể sống nhưng sẽ phát triểm chậm và kém hơn.
Cây chứa các hợp chất có tác dụng sinh học
khác như: terpene, steroid, coumarin, flavonoid, acid phenolic, lignan,
xanthone, anthraquinone, edotide and sesquiterpene (có tác dụng kháng ung thư).
Ngoài ra lá còn chứa các chất khoáng: magnesium, chromium, manganese, selenium,
sắt, đồng, kẽm, Vitamin A, E, C, B1,B2. protein thô, chất xơ, chất béo, tro,
carbohydrate, các acid amin quan trọng: Leucine, Isoleucine, Lysine,
Methionine, Phenyl alanine, Threonine, Valine, Histidine, Tyrosine.
Những hợp chất trong cây mật gấu có tác
dụng hỗ trợ điều trị các bệnh do quá trình viêm mạn tính, lão hoá, bệnh nhiễm giun
sán, động vật nguyên sinh (protozoan) và vi khuẩn. Theo công bố trên Quyển
Y - Sinh học thực nghiệm tháng 2 năm 2004 (Experimental Biology and Medicine of
February 2004 Edition) cho thấy lá cây mật gấu có tác dụng hạ thấp tỉ lệ nguy
cơ bị ung thư vú. Lá mật gấu dùng nấu dạng canh rau hay xay nhuyễn lấy
nước uống như dạng nước bổ dưỡng trong nhiều dạng bệnh lý khác nhau. Nhiều thầy
thuốc ở Châu Phi khuyên người dân dùng trị bệnh đường tiêu hoá, đái tháo đường,
chán ăn, kiết lỵ và các chứng rối loạn tiêu hoá. Các Polyphenol có tính
kháng viêm và anti - oxidant, thải độc, bảo vệ thận, gan, hỗ trợ điều trị một số
bệnh ngoài da, làm giảm đường huyết, bao vệ tim mạch do giúp ổn định lipid
máu.
Theo Đông y, cây mật gấu có vị đắng tính mát,
vào 4 kinh: phế, vị, can, thận, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát gan,
tiêu viêm, làm se, lợi mật, phòng ngừa và chữa sỏi mật, giảm đau lưng và thấp
khớp, tăng cường sức khoẻ… Cây mật gấu còn có tác dụng rất tốt trong việc điều
trị các triệu chứng về bệnh dạ dầy, rối loạn tiêu hoá, đường ruột, đau nhức
xương khớp, tê thấp, làm tiêu mỡ, giã rượu, cải thiện tình trạng béo phì
và bệnh gút. Người ta thường dùng 10 - 20g rễ hoặc thân cây sắc uống
chữa ăn uống không tiêu, trị đau ngực, đau gối, chóng mặt, ù tai, viêm gan,
vàng da, tiêu chảy, kiết lỵ, đau mắt. Dùng lá hay quả (8 - 12g) sắc uống hay phối
hợp với các vị thuốc khác. Ngoài ra, cây mật gấu còn được dùng để chữa sốt
cơn, ho lao, khạc ra máu, lưng gối yếu mỏi, mất ngủ. Dùng ngoài, nấu nước đặc để
rửa chữa viêm da dị ứng, lở ngứa…Cách dùng : Chẻ nhỏ sắc nước uống hàng ngày (mỗi
ngày sử dụng khoảng 20g) hoặc ngâm rượu (ngày uống 3 lần mỗi lần 10 - 20 ml)
Y học dân gian ở nhiều quốc gia cũng dùng
cây mật gấu chữa nhiều bệnh như : Ấn Độ dùng lá chữa tiểu đường, dùng cành, rễ
hỗ trợ điều trị HIV, hạ sốt, giảm ho, phát ban, cảm cúm, viêm vú. Congo dùng lá và vỏ rễ chữa kiết lỵ, viêm dạ
dày, ruột, sốt rét, viêm gan, nhiễm giun. Nam Phi dùng rễ
chữa sán máng (huyết hấp trùng), hiếm muộn, rối loạn kinh nguyệt. Nhiều
nơi ở Tây Phi dùng lá làm trà lợi tiểu, chữa
táo bón, nhiễm trùng da, đái đường, bệnh chuyển hóa liên quan đến gan…
ThS Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét