VÀI
ĐIỀU VỀ CÂY LƯỢC VÀNG
Vốn có nguồn gốc từ Mexico được di
thực sang Nga rồi về đến Việt Nam vào những năm 90 của thập kỷ
trước. Lúc đầu, lược vàng được trồng để làm cảnh, sau đó dựa theo
những kinh nghiệm và tài liệu của Nga mà được sử dụng để làm
thuốc. Đầu tiên là ở Thanh Hóa rồi lan rộng ra các tỉnh thành trong
toàn quốc và bùng phát thành cơn sốt “Lược vàng” bắt đầu từ năm
2007.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về tác dụng chữa bệnh
của cây lược vàng, thậm chí là trái chiều nhau, nhưng chủ yếu có ba
quan điểm chính : Một là, coi lược vàng như một thứ thần dược có
thể chữa được “bách bệnh” kể cả những bệnh nan y như ung thư, điều
này khiến cho người ta đổ xô đi tìm mua, trồng hái, buôn bán, sử dụng
loại dược liệu này giống như đã từng xảy ra đối với cây con khỉ
(hoàn ngọc, xuân hoa…) hay nấm cổ linh chi ; Hai là, không tin vào khả
năng chữa bệnh có tính chất “đồn thổi” của lược vàng, thậm chí đi
đến phủ định hoàn toàn ; Ba là, xem xét và sử dụng loại dược liệu
này một cách thận trọng, ghi nhận những trường hợp thành công nhưng
không khẳng định một cách chắc chắn khi chưa có những chứng cứ khoa
học bài bản. Vậy, nên hiểu về giá trị ngăn ngừa và chữa trị bệnh
tật của cây lược vàng như thế nào cho đúng ?
Trước hết, phải khẳng định rằng, trước khi di thực vào nước ta
trong mươi năm gần đây, chúng ta chưa biết đến loài thực vật này và
giá trị y học của nó. Và trên thực tế, cho đến nay lược vàng cũng
chưa được ghi trong các y thư chính thống ví như sách “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” của Giáo sư, tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, hay sách
“Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” của tập thể tác giả
thuộc Viện Dược liệu trung ương, hay sách “Cây thuốc Việt Nam” của
lương y Lê Trần Đức…Nhìn rộng ra, ngay cả sách “Trung dược đại từ
điển” của Trung Quốc cũng chưa thấy ghi cây thuốc này với cái tên khoa
học là “Callisia fragrans”, thuộc
họ Thài lài Commelinaceae. Căn cứ để dùng lược vàng chữa bệnh ở
nước ta hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào các tài liệu và kinh nghiệm
có xuất xứ từ Nga.
Thứ
hai, dựa trên các tài liệu nghiên cứu nước ngoài có thể thấy cây
lược vàng chứa các chất có
hoạt tính sinh học gồm flavonoid, steroid và nhiều khoáng tố vi lượng có lợi
cho sức khoẻ. Chất flavonoid đóng vai trò như vitamin P có khả năng làm bền
mạch máu, giảm đau, an thần, kháng viêm, hoạt huyết và tăng tác dụng của
vitamin C, được dùng để chữa lành vết thương, vết bỏng, vết bầm tím. Dân gian
dùng làm phương thuốc chữa bệnh loét dạ dày tá tràng, lợi tiểu, ngăn ngừa và
điều trị các khối u trong cơ thể. Hai chất flavonoid được xác định là quercetin
và kaempferol. Quercetin là một chất chống oxy hoá tế bào mạnh, có khả năng
kháng ung thư và tăng sức bền thành mạch, còn hữu ích trong trường hợp dị ứng,
chảy máu thành mạch, viêm thận, thấp khớp, bệnh tim mạch, bệnh mắt và các bệnh
nhiễm trùng. Kaempferol giúp củng cố mao mạch, nâng đỡ thể trạng, tăng sự đào
thải nước tiểu và khả năng kháng viêm, được dùng chữa viêm nhiễm, dị ứng và
bệnh đường tiết niệu. Chất steroid trong cây chính là phytosterol. Chất này có
hoạt tính estrogen, tác dụng sát khuẩn, chống xơ cứng và kháng ung thư. Cây
lược vàng còn có khả năng tẩy uế không khí ô nhiễm trong phòng, phóng thích
những chất có ích cho việc điều trị các bệnh lý đường hô hấp.
Thứ
ba, cho đến nay ở nước ta kinh nghiệm trồng hái và sử dụng lược vàng
làm thuốc đã trở nên khá phổ biến. Số lượng các bài báo, các tư
liệu viết truyền tay nói về thành công trong việc dùng lược vàng để
chữa bệnh là hết sức phong phú. Tựu trung lại, dược liệu này đã
được dùng để chữa các bệnh và chứng bệnh như viêm khớp, đau cứng
khớp, vôi hóa đốt sống, đau mỏi toàn thân, viêm loét dạ dày tá
tràng, ung thư dạ dày, xơ gan cổ chướng, u gan lành tính, bệnh
nóng gan do hỏa vượng, viêm gan siêu vi A,B,C, gan nhiễm mỡ, viêm túi mật, viêm phúc mạc cấp, đầy hơi
không tiêu, viêm ống dẫn mật, sỏi mật (dạng bùn), ngộ độc thức ăn, táo bón, ho
do viêm phế quản lâu ngày, do viêm họng, bệnh nóng gan do hỏa vượng, u nang
buồng trứng, rối lọan tiền đình, parkinson (chứng rung tay chân ở người già),
tâm thần phân liệt, suy nhược thần kinh, mất ngủ, đau đầu, mộng du, ngủ mơ
thấy ác mộng, kém trí nhớ (bệnh down), cảm mạo phong hàn, yếu sinh lý, xuất
tinh sớm, di tinh, mộng tinh, liệt dương, hiếm muộn, dái nước, lở miệng do
nóng, chống viêm loét ngoài da, bầm tím da,
vẩy nến, mẩn ngứa, giời leo, chứng ra mồ hôi chân tay ở người lớn
và đổ mồ hôi trộm ở trẻ em, đau răng, chảy
máu chân răng, đau lưng, côn trùng cắn, đái tháo đường, làm sáng mắt,
đục thủy tinh thể ở người già, sạn sỏi ở thận, sài đẹn…Tuy nhiên, đây vẫn
chỉ là những kinh nghiệm chữa bệnh mang tính chất cá nhân, truyền
miệng và đơn lẻ. Hầu hết nói về thành công và không có bất cứ một
thông báo nào về việc thất bại trong việc dùng lược vàng chữa bệnh.
Thứ tư, với tinh
thần thực sự cầu thị, giới dược học Việt nam đã hết sức tích cực
trong việc nghiên cứu về thành phần hóa học, tác dụng sinh học và
độc tích của cây lược vàng trên thực nghiệm với vai trò của TS
Nguyễn Minh Khởi, TS Trịnh Thị Điệp và các nhà khoa học thuộc Viện
Dược liệu đã cho thấy có rất nhiều vấn đề về cây lược vàng cần
được làm sáng tỏ, trong đó có những kết quả nghiên cứu thu được rất
bất ngờ. Ví như, kết quả thử tác dụng chống viêm cấp trên thực nghiệm với
liều dùng tương đương với 50g dược liệu tươi/kg thể trọng chuột cho thấy lược
vàng không có tác dụng chống viêm, thậm chí cao chiết cồn 50% từ thân lược vàng
còn tăng phản ứng viêm. Về khả năng kháng khuẩn, trong 3 chủng vi khuẩn thường
gặp, cao chiết của lá và thân lược vàng có tác dụng kháng khuẩn đối với Staphylococcus
aureus nhưng phải ở nồng độ rất cao so với kháng sinh tham chiếu là
azithromycin. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cao chiết lá và
thân lược vàng còn có độc tính cấp, gây chết chuột thí nghiệm ở liều uống cao.
Rất tiếc, cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào trên lâm
sàng khảo sát công dụng của lược vàng trên một bệnh lý cụ thể. Vì
thế, việc dùng lược vàng theo kinh nghiệm truyền miệng vẫn cứ lưu
truyền trong dân gian mà chưa biết giá trị trị liệu cụ thể và hậu
quả khôn lường của nó ra sao.
Cuối cùng, cũng như
rất nhiều cây thuốc và con thuốc khác ở Việt Nam, lược vàng rất cần
có những nghiên cứu sâu hơn để làm sáng tỏ nhiều vấn đề như : lược
vàng trổng Việt Nam có gì khác so với lược vàng ở Mexico và Nga về
các tiêu chí dược học và độc tính, trên lâm sàng giá trị chữa bệnh
của lược vàng ở những mặt bệnh nào, hiệu quả đến đâu, tác dụng
không mong muốn như thế nào. Và đương nhiên rất cần những đề tài nghiên
cứu nghiêm túc về vấn đề này để có thể đưa ra những kết luận đầy đủ và
toàn diện về cây lược vàng nhằm làm sáng tỏ xem cây này có tác dụng thực sự
như dân gian truyền miệng hay không và hoạt chất thực sự của nó là gì. Trên cơ
sở đó sớm cung cấp những thông tin khoa học chính xác để trả lời dư luận, giúp
người dân sử dụng cây lược vàng an toàn và hiệu quả. Tiến sĩ Trịnh Thị
Điệp rất có lý khi nói rằng : “Nếu không nghiên cứu chuyên sâu về
loại cây này có thể sẽ làm lãng phí một nguồn dược liệu dễ trồng nhưng cũng có
thể không phát hiện ra yếu tố không có tác dụng tốt cho sức khỏe con người”.
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét