CÁC BIỆN PHÁP DỰ PHÒNG ĐỘT QUỴ NÃO
Đột quỵ não (stroke) hoặc cơn tai biến
mạch máu não (cerebrovascular accident) do mất đột ngột lưu lượng máu tới não
(chảy máu não hoặc tắc mạch não) dẫn đến giảm, mất chức năng hoặc chết các tế
bào não, là nguyên nhân gây liệt, rối loạn ngôn ngữ, mất cảm giác, trí nhớ, hôn
mê và có khả năng gây tử vong.
Đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới sau ung thư, đứng hàng đầu về tàn phế ở người trưởng thành. Hàng năm ở Mỹ có khoảng 700.000 -750.000 bệnh nhân mới và tái phát, chi phí 30 tỷ USD cho điều trị nội trú và phục hồi chức năng. Tại Pháp, 12% tử vong ở người già do nguyên nhân đột quỵ não, đứng hàng đầu trong các nguyên nhân tử vong. Tỷ lệ mới mắc đột quỵ ở Mỹ là 135/100.000 dân, ở Pháp là 145/100.000 dân. Tỷ lệ đột quỵ tính toàn châu Âu, số người bị đột quỵ lần đầu tiên trong khoảng 141-219/100.000 dân. Ở châu Á, theo Hiệp hội thần kinh các nước Đông nam Á, tỷ lệ mới mắc đột quỵ não là : Nhật bản từ 340 - 523/100.000 dân; Trung quốc 219/100.000 dân; Israel 140/100.000 dân; Ấn độ 13/100.000 dân; Mông cổ 8/100.000 dân; Srilanca 29/100.000 dân; Việt nam 161/100.000 dân (Lê Đức Hinh, (1998). Dự kiến đến năm 2020, đột quỵ não là một trong bốn bệnh hàng đầu dẫn đến tử vong . Ở Việt nam, tỷ lệ mắc bệnh đột quỵ não đang gia tăng ở mức đáng lo ngại ở cả hai giới và các lứa tuổi. Nguy cơ xẩy ra đột quỵ gia tăng theo tuổi, tăng gấp đôi cứ mỗi 10 năm sau 55 tuổi, xấp xỉ 28% đột quỵ xẩy ra dưới 65 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu của đột quỵ não là tăng huyết áp.
Đột quỵ não gồm hai thể bệnh chính: chảy máu não và thiếu máu não cục bộ. Theo thống kê, đột quỵ thiếu máu não chiếm khoảng 80 - 85%, đột quỵ chảy máu não chiếm từ 10 - 15%. Quan niệm đột quỵ não chỉ là cách kết thúc cuộc đời của người già nay đã lỗi thời. Từ những năm của thập kỷ 80 trở lại đây, tỷ lệ tử vong ở các nước phát triển đã giảm nhờ chẩn đoán sớm và với các phương tiện hồi sức tích cực, tổ chức thành các đơn vị đột quỵ não cũng như các trung tâm đột quỵ não đã điều trị có hiệu quả bệnh. Mặt khác nhờ hiểu biết cơ chế bệnh sinh, có các biện pháp chống yếu tố nguy cơ trong cộng đồng có hiệu quả nhất là điều trị bệnh tăng huyết áp, nên tỷ lệ mới mắc ở các nước phát triển đã giảm đáng kể ở Anh, và các nước Bắc Âu. Từ các số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, đã đưa ra nhận xét : đột quỵ não là bệnh hoàn toàn có thể dự phòng có kết quả bằng các biện pháp mang tính tổng hợp.
Đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới sau ung thư, đứng hàng đầu về tàn phế ở người trưởng thành. Hàng năm ở Mỹ có khoảng 700.000 -750.000 bệnh nhân mới và tái phát, chi phí 30 tỷ USD cho điều trị nội trú và phục hồi chức năng. Tại Pháp, 12% tử vong ở người già do nguyên nhân đột quỵ não, đứng hàng đầu trong các nguyên nhân tử vong. Tỷ lệ mới mắc đột quỵ ở Mỹ là 135/100.000 dân, ở Pháp là 145/100.000 dân. Tỷ lệ đột quỵ tính toàn châu Âu, số người bị đột quỵ lần đầu tiên trong khoảng 141-219/100.000 dân. Ở châu Á, theo Hiệp hội thần kinh các nước Đông nam Á, tỷ lệ mới mắc đột quỵ não là : Nhật bản từ 340 - 523/100.000 dân; Trung quốc 219/100.000 dân; Israel 140/100.000 dân; Ấn độ 13/100.000 dân; Mông cổ 8/100.000 dân; Srilanca 29/100.000 dân; Việt nam 161/100.000 dân (Lê Đức Hinh, (1998). Dự kiến đến năm 2020, đột quỵ não là một trong bốn bệnh hàng đầu dẫn đến tử vong . Ở Việt nam, tỷ lệ mắc bệnh đột quỵ não đang gia tăng ở mức đáng lo ngại ở cả hai giới và các lứa tuổi. Nguy cơ xẩy ra đột quỵ gia tăng theo tuổi, tăng gấp đôi cứ mỗi 10 năm sau 55 tuổi, xấp xỉ 28% đột quỵ xẩy ra dưới 65 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu của đột quỵ não là tăng huyết áp.
Đột quỵ não gồm hai thể bệnh chính: chảy máu não và thiếu máu não cục bộ. Theo thống kê, đột quỵ thiếu máu não chiếm khoảng 80 - 85%, đột quỵ chảy máu não chiếm từ 10 - 15%. Quan niệm đột quỵ não chỉ là cách kết thúc cuộc đời của người già nay đã lỗi thời. Từ những năm của thập kỷ 80 trở lại đây, tỷ lệ tử vong ở các nước phát triển đã giảm nhờ chẩn đoán sớm và với các phương tiện hồi sức tích cực, tổ chức thành các đơn vị đột quỵ não cũng như các trung tâm đột quỵ não đã điều trị có hiệu quả bệnh. Mặt khác nhờ hiểu biết cơ chế bệnh sinh, có các biện pháp chống yếu tố nguy cơ trong cộng đồng có hiệu quả nhất là điều trị bệnh tăng huyết áp, nên tỷ lệ mới mắc ở các nước phát triển đã giảm đáng kể ở Anh, và các nước Bắc Âu. Từ các số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, đã đưa ra nhận xét : đột quỵ não là bệnh hoàn toàn có thể dự phòng có kết quả bằng các biện pháp mang tính tổng hợp.
Các biện pháp dự phòng đột quỵ não
nhằm ba mục đích : phòng ngừa bị bệnh, dự phòng tái phát và điều
trị củng cố. Nội dung chính bao gồm :
-
Khai thông sớm các trường hợp hẹp động mạch cảnh trong bằng các biện
pháp phẫu thuật hoặc can thiệp từ bên ngoài
-
Giảm dần các yếu tố nguy cơ nguyên nhân mạch máu (tăng huyết áp, tăng
cholesterol, kiểm soát tốt bệnh đái tháo đường, bỏ hút thuốc lá) để ngăn chặn
sự tạo thành các mảng vữa xơ động mạch
-
Điều trị chống kết tập tiểu cầu để ngăn chặn sự tạo thành mảng vữa xơ động mạch
mới và các biến chứng huyết khối vữa xơ động mạch do đứt vỡ các mảng này.
Các biện pháp cụ thể bao gồm :
+
Chống tăng huyết áp để làm giảm các biến chứng về tim mạch, thận
và tỷ lệ tử vong. Tích cực sử dụng các biện pháp phòng chống thừa
cân và béo phì, ăn nhạt, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Sử
dụng thuốc hạ huyết áp đều đặn và đúng cách theo hướng dẫn của
thầy thuốc.
+
Cai thuốc lá triệt để vì hút thuốc làm nguy cơ gây vữa xơ động mạch
và bệnh mạch vành tăng gấp đôi, nhất là ở những người hút trên 40
điếu mỗi ngày. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng : nguy cơ đột quỵ não
sẽ dứt hẳn sau một vài năm ngừng hút thuốc lá.
+
Điều chỉnh rối loạn lipid máu, trong đó đặc biệt làm giảm
cholesterol. Cơ chế sinh bệnh vữa xơ
động mạch chưa được hiểu biết hoàn toàn, nhưng tổn thương và hậu quả rối loạn
chức năng của các tế bào nội mạc mạch máu là rất sớm. Có nhiều nghiên cứu lớn
đã chỉ ra rằng tăng cholesterol là một yết tố nguy cơ độc lập của đột quỵ não.
+
Thực hiện chế độ ăn muối và kali hợp lý. Ăn mặn làm tăng huyết áp. Đối với các nước nhiệt đới, chỉ nên giảm muối
vừa phải do mất muối qua mồ hôi. Chế độ ăn ít kali làm tăng nguy cơ đột quỵ do
tăng huyết áp. Nên bổ sung kali bằng ăn thêm hoa quả và rau tươi. Mức độ ăn
kiêng được khuyến cáo chung là không quá 2,4g natri mỗi ngày (tương đương 6g
muối ăn natriclorua). Những bệnh nhân tăng huyết áp nếu giảm bớt lượng
muối ăn khoảng 40mg/ngày thì sẽ giảm được nguy cơ tăng huyết áp hoặc
biến chứng tim mạch.
+ Cai
rượu, người ta thấy việc sử dụng rượu mức trung bình có thể cải thiện sức
khỏe một cách thật sự. Tuy nhiên một số người nghiện rượu thường gặp
phải những biến chứng nặng do lạm dụng rượu. Nghiện rượu nặng (sử dụng
nhiều hơn 60g/ngày) tăng nguy cơ đột quỵ. Sử dụng mức độ trung bình
(12-24g/ngày) giảm nguy cơ đột quỵ. Sử dụng rượu ít hơn 12g/ngày thì nguy cơ thấp
nhất. “10g rượu tương đương với 330ml bia hoặc 100ml rượu vang hoặc 30ml
rượu mạnh.
+ Tập thể
dục để làm giảm thấp các yết tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Những người đàn
ông thường xuyên hoạt động đủ mạnh để ướt đẫm mồ hôi là đã giảm 20% nguy cơ đột
quỵ. Tập thể dục mức độ trung bình, chẳng hạn như đi bộ nhanh, đạp xe đạp hoặc
bơi lội ít nhất 30 phút/lần/ngày, 5 ngày/tuần là hữu ích. Tập thể
dục đều đặn có thể góp phần cải thiện đường máu, giảm tỷ lệ kháng insulin, giảm
cân, cải thiện một số thông số lipid, hạn chế tiến triển tổn thương xữa xơ
động mạch và cải thiện huyết áp. Tập thể dục có tác dụng làm giảm HA tâm
thu, giảm béo phì. Thể dục làm giảm tỷ lệ nhồi máu cơ tim do đó cũng
làn giảm tỷ lệ đột quỵ não.
+ Chống
béo phì, nhất là béo bụng vì đó là
nguy cơ lớn nhất của đột quỵ. Về yếu tố nguy cơ của đột quỵ, nghiên cứu sức
khỏe dinh dưỡng đã xác định rằng gia tăng chỉ số khối cơ thể = [trọng lượng (kg)]
chia cho [chiều cao (m)]2, nếu > 27kg/m2 và tăng cân nặng sau 18 tuổi làm
tăng yếu tố nguy cơ của nhồi máu não.
+ Chống
bệnh đái tháo đường để làm giảm nguy cơ đột quỵ não. Nghiên cứu ở
Framinham đã xác định rằng nguy cơ đột quỵ cao hơn trong những bệnh nhân đái
tháo đường so với những bệnh nhân không đái tháo đường. Khi một bệnh nhân đái
tháo đường bị đột quỵ thì hậu quả hiểm nghèo hơn nhiều so với bệnh nhân không
bị đái tháo đường. Lý do của hậu quả này là do bệnh nhân bị đái tháo có vòng
tuần hoàn nghèo nàn.
+ Phát
hiện và điều trị sớm các bệnh lý về tim như Rối loạn nhịp (đặc biệt là
rung nhĩ), tổn thương van tim, các tổn thương cơ tim đặc biệt là nhồi máu
mới, nhồi mấu cũ và bệnh lý cơ tim.
+ Sử dụng
các thuốc dự phòng theo hướng dẫn của thầy thuốc, bao gồm :
(1)
Các thuốc tây y như : Các thuốc chống đông và thuốc
chống kết tập tiểu cầu do ức chế sự tổng hợp thromboxan A2 của tiểu cầu (chất
làm dính các tiểu cầu với nhau và với thành mạch) đồng thời giúp ổn định màng
tế bào làm ADP không giải phóng ra được khỏi màng tế bào để tham gia vào quá
trình kết dính tiểu cầu nên đã được dùng phổ biến trong thời kỳ cấp để ngăn
chặn huyết khối tiến triển và tái phát. Chúng có lợi ích dự phòng lâu dài cho
nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm rung nhĩ, tình trạng
tăng đông. Tuy vậy, các thuốc này không làm tiêu có ý nghĩa cục máu đông và
không thể tái lập nhanh tưới máu não trong giai đoạn cấp. Các thuốc chống
kết tập tiểu cầu chủ yếu là Aspirin, Dypiridamol, Aggrenox, Clopidogrel…
(2) Các thuốc đông y như Hoa đà tái tạo
hoàn, là phương thuốc bí truyền dân gian Trung quốc được nghiên cứu sản xuất
dưới dạng viên hoàn, liều dùng 8 gam/1 lần x 2 lần/24h, một đợt điều trị 30
ngày, có thể uống 3 đợt liên tục và không có tai biến. Thuốc có tác dụng khu
phong khai khiếu, hoạt huyết hoá ứ, tiêu sưng tán kết. Thuốc đã được nghiên cứu
thực nghiệm trên động vật (thỏ, chó, mèo, chuột) nhận thấy thuốc làm tăng lưu
lượng động mạch cảnh gốc và động mạch cảnh trong, làm tăng cường tính co bóp
của cơ tim. Thuốc cũng đã được nghiên cứu thử nghiệm trên lâm sàng ở nhiều bệnh
viện của Trung Quốc để điều trị cho các bệnh nhân sau đột quỵ não (cả đột quỵ
chảy máu và đột quỵ thiếu máu não) và đã được xác định có sự cải thiện rõ lưu
lượng máu não của bệnh nhân, giảm độ quánh máu, giảm chỉ số kết tập tiểu cầu,
cải thiện khả năng biến dạng hồng cầu, dự phòng tích cực đột quỵ tái
phát ; Luotai, là Panax notogingseng saponin (dạng bột pha tiêm, viên nén,
dung dịch tiêm) của Trung Quốc dùng để dự phòng và điều trị đột quỵ thiếu
máu cục bộ não cấp và bán cấp do có tác dụng làm bền vững thành mạch máu, cải
thiện vi tuần hoàn, tác động vào quá trình đông máu, giảm đau và chống viêm. Ngoài
ra còn nhiều loại đông dược thành phẩm khác như Hoạt huyết dường
não, viên Kỷ cúc địa hoàng hoàn, viên Tứ vật đào hồng…
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét