Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Đan sâm ẩm

ĐAN SÂM ẨM, MỘT LOẠI TRÀ DƯỢC QUÝ



     Bất cứ ai có chút kiến thức về y học cổ truyền đều biết đến Tứ vật thang, một bài thuốc rất đơn giản chỉ gồm 4 vị : thục địa, đương quy, bạch thược và xuyên khung, nhưng lại là một phương thang “ bổ huyết điều huyết” kinh điển hết sức cơ bản và trọng yếu, được các thầy thuốc y học cổ truyền sử dụng thường xuyên trong công tác chẩn trị bệnh tật.
     Nhưng, cũng từ xa xưa giới chuyên ngành đông y, đông dược đã lưu truyền  câu ngạn ngữ : “ Nhất vị đan sâm ẩm, công đồng Tứ vật thang” (một vị đan sâm cũng có tác dụng ngang với cả bài thuốc Tứ vật). Y thư cổ Bản thảo hối ngôn cũng viết : “ Đan sâm nhất vật, nhi hữu Tứ vật chi công. Bổ huyết sinh huyết, công quá Quy, Thục ; điều huyết liễm huyết, lực kham Thược dược ; trục ứ sinh tân, tính bội Khung cùng” ( Chỉ mình vị Đan sâm mà có công năng như bài Tứ vật, bổ huyết và sinh huyết hơn cả Đương quy và Thục địa, điều huyết liễm huyết không thua kém Bạch thược, trừ huyết ứ sinh huyết mới vượt cả Xuyên khung). Dẫu cho cổ nhân có đánh giá hơi quá mức một chút, nhưng đủ thấy Đan sâm là vị thuốc rất có giá trị về phương diện huyết mạch, đặc biệt là công dụng hoạt huyết khứ ứ.
     Đan sâm ( Radix Salviae multiorrhizae) thực chất là rễ phơi hay sấy khô của cây đan sâm có tên khoa học là Salvia miltiorrhiza Bunge. “ Đan” là đỏ, “ sâm” là sâm, vì rễ cây này trông giống sâm mà lại có màu đỏ nên gọi là Đan sâm. Theo y thư cổ, Đan sâm vị đắng tính hơi lạnh, vào được hai kinh tâm và can, có công dụng hoạt huyết khứ ứ, tiêu thũng chỉ thống, lương huyết dưỡng huyết và an thần ; thường được dùng để chữa các chứng bệnh của đông y do huyết ứ gây nên như thống kinh, bế kinh, kinh nguyệt không đều, tâm thống, hung hiếp thống, quản phúc thống, phong thấp tý thống, ung thư thũng thống, tâm quý chính xung, trật đả thương tổn…
     Nghiên cứu hiện đại cho thấy, với thành phần chủ yếu gồm Tanshinone I, IIA và IIB ,  Cryptotanshinone, Salvianolic acid A, B và C, Tanshiquinone…, Đan sâm có tác dụng dược lý khá phong phú :
- Làm giãn và tăng lưu lượng động mạch vành, phòng chống tích cực tình trạng thiếu máu và hoại tử cơ tim, làm chậm nhịp tim .
- Cải thiện vi tuần hoàn, nâng cao sức chịu đựng của tế bào não và cơ tim trong điều kiện thiếu ô xy.
- Chống đông máu, ức chế chức năng tiểu cầu và ổn định màng hồng cầu.
- Điều chỉnh rối loạn lipid máu : làm giảm cholesterol và triglycerid ; ức chế và làm chậm quá trình hình thành các mảng vữa xơ động mạch.
- Bảo vệ và thúc đẩy sự tái sinh tế bào gan, bảo hộ và chống tình trạng loét niêm mạc dạ dày, cải thiện công năng thận và dự phòng cơn hen tái phát.
- Ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn coli, lỵ và thương hàn.
- Nâng cao năng lực miễn dịch, chống thương tổn do phóng xạ, thanh trừ và ức chế sự hình thành các gốc tự do, thúc đẩy quá trình liền sẹo vết thương.
- Trấn tĩnh và chống co giật.
     Trên cơ sở nghiên cứu dược lý này, người ta đã dùng Đan sâm và các chế phẩm của nó để điều trị khá nhiều mặt bệnh theo y học hiện đại như viêm gan, viêm thận cấp và mạn tính, hen phế quản, viêm thần kinh ngoại vi do đái đường, đau dây thần kinh tam thoa, đâu đầu do mạch máu, ù tai do nguyên nhân thần kinh, mụn nhọt...và đặc biệt là các bệnh lý tim mạch như thiểu năng tuần hoàn não, tai biến mạch não, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, thiểu năng mạch vành, xuất huyết võng mạc, viêm động tĩnh mạch...
     Hiện nay, ngoài việc dùng Đan sâm đơn thuần hoặc phối hợp với các vị thuốc khác dưới dạng đơn sắc, viên hoàn hoặc bột thuốc theo lối cổ truyền, người ta còn ứng dụng công nghệ hiện đại để sản xuất và đưa vào sử dụng Đan sâm với hình thức dịch tiêm truyền, viên nén, viên nang, trà tan...Tuy nhiên, các dạng thuốc này đều khá phức tạp, khó chế, khó dùng và đắt tiền, chưa thích hợp với điều kiện kinh tế hiện nay và yêu cầu của công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Bởi vậy, việc chọn dùng Đan sâm dưới một dạng thuốc tương đối dân dã, dễ chế, dễ dùng và rẻ tiền mà vẫn giữ được tác dụng ở một mức độ đáng kể là điều hết sức cần thiết.
     Đan sâm ẩm, một loại trà dược được ghi trong sách Trung quốc dược thiện học, có lẽ đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu này. Cách chế và cách dùng cụ thể như sau:
     Đan sâm 6 gam rửa sạch, thái mỏng rồi hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 - 20 phút có thể dùng được, uống thay trà trong một ngày. Chú ý chọn loại to chắc, khô, mềm, sắc ngoài đỏ tía, sắc trong vàng thâm mịn, không có xơ và không có rễ con là tốt. Nên dùng loại trà dược này với mục đích dự phòng tích cực, điều trị hỗ trợ hoặc điều trị duy trì cho những mặt bệnh đã nêu ở trên. Khi uống, nếu bị đi lỏng thì có thể sao qua Đan sâm trước khi dùng hoặc cho thêm vào ấm trà vài lát gừng tươi. Riêng đối với bệnh lý động mạch vành tim, để nâng cao hiệu quả trị liệu có thể phối hợp Đan sâm với một số vị thuốc hoạt huyết khác như Đàn hương, Tam thất, Hồng hoa, Nguyệt lý hoa... Ví dụ : Đan sâm 15g, Tam thất 100g, hai thứ tán vụn, mỗi ngày dùng 10g, bọc trong túi vải , hãm uống thay trà hoặc Đan sâm 9g, trà búp 3g, hai thứ tán vụn hãm uống thay trà trong ngày. Cũng cần lưu ý là Đan sâm ẩm không được dùng cho phụ nữ có thai và những người không có có hội chứng huyết ứ.

                                                                                                                                                                                                                                               


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét