ĐÔNG Y DÙNG NƯỚC CHỮA BỆNH NHƯ THẾ
NÀO ?
Với
trái đất, nước là một trong những yếu tố cấu thành hết sức quan
trọng, “trái đất ba phần tư nước mắt, trôi như giọt lệ giữa không
trung” (Xuân Diệu). Với con người, nước không chỉ là một chất dinh
dưỡng trọng yếu duy trì mọi hoạt động sống ,à còn là một nhân tố
tham gia tích cực vào việc phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao
sức khỏe. Từ xa xưa, trong y học cổ truyền phương Đông, nước đã được
sử dụng như một phương tiện, một thứ thuốc để chữa bệnh và dưỡng
sinh. Sách “Lễ ký” thời Xuân thu Chiến quốc đã viết : “đầu hữu sang
tắc mộc, thân hữu dương tắc dục”, ý nói khi ở đầu và thân mình có
bệnh thì nên sử dụng việc tắm gội như một phương pháp chữa trị. Còn
sách “Sơn hải kinh.Thủy kinh chú” có đoạn viết : “Ôn tuyền thủy, thủy
tây bắc huyền cốc, kỳ thủy ôn nhiệt như thang, năng dụ bách bệnh”
(nước suối nóng có thể chữa được trăm loại bệnh). Y thư kinh điển cổ
nhất còn lưu lại đến ngày nay “Hoàng đế nội kinh” cũng đã viết :
“Kỳ hữu tà giả, tứ hình dĩ vi hãn”, ý nói nên lấy việc ngâm rửa
làm một trong những nội dung trọng yếu của “hãn pháp” (phương pháp
làm ra mồ hôi để loại bỏ tà khí)
Tiếp đó,
trong các y thư cổ nổi tiếng đời sau như “Thiên kim yếu phương”, “Kinh
sử chứng loại bị cấp bản thảo”, “Trửu hậu bị cấp phương”, “Thiên kim
dực phương”, “Ngoại đài bí yếu”, “Ngoại khoa tinh nghĩa”, “Chứng loại
bản thảo”...đều đã ghi lại những kinh nghiệm dùng nước để chữa bệnh
ở các mức độ khác nhau. Đặc biệt, trong sách “Bản thảo cương mục”,
nhà bác học Lý Thời Trân đã tiến hành thu thập và tổng kết kinh
nghiệm sử dụng thủy liệu pháp của các bậc tiền nhân. Căn cứ vào
nguồn gốc, trạng thái và tính chất của các loại nước, Ông đã chia
nước ra thành hai loại lớn là Thiên thủy và Địa thủy, đồng thời còn
nói rõ đặc tính cảu 43 loại nước khác nhau như nước mưa, sương, mù, tuyết,
băng, mưa đá, nước biển, nước sông, nước suối, nước hồ ao...Ông còn
cho rằng, con người ở các vùng đấtb khác nhau, uống các loại nước
có tính chất không giống nhau thì sự mạnh yếu của nhân thể, thọ yểu
của sinh mạng cũng có nhiều khác biệt. Ông cũng ghi chép một cách
tỷ mỉ tính vị, quy kinh, công dụng, chỉ định vad cách dùng của tứng
loại nước, thống kê và tập hợp một khối lượng khá lớn các phương
thuốc có sử dụng nước để các thầy thuốc đời sau tiện tra cứu và
tuyển dụng trong thực tiễn phòng và chữa bệnh cho nhân dân.
Vậy, y
học cổ truyền đã sử dụng nước để chữa bệnh theo những phương thức
nào ? Có thể nói, tùy theo yêu càu của bệnh trạng, tính chất của
các loại nước và điều kiện khí hậu, địa lý cụ thể, người xưa đã
vận dụng thủy liệu pháp theo những phương thức chủ yếu sau đây :
* Ẩm thủy pháp, còn gọi là ẩm yến pháp, là phương pháp dùng các loại nước
tự nhiên như nước giếng, nước suối, nước mưa...uống trực tiếp để
chữa bệnh. Tùy theo tính chất hàn nhiệt của nước mà người ta phân ra
làm hai nhóm Lãnh ẩm pháp (dùng nước lạnh) và Nhiệt ẩm pháp (dùng
nước nóng). Theo quan niệm của cổ nhân, nước lạnh có khả năng điều
hòa tràng vị, thanh nhiệt giải độc, trừ phiền chỉ khát ; nước nóng
ó tác dụng thông dương phát hãn, ôn trung trừ hàn. Ví như, để chữa
chứng trong ngực buồn phiền rạo rực, vã mồ hôi nhiều, sách “Chứng
loại bản thảo” khuyên nên đào một cái hố, đổ nước vào trong, khuấy
đục đợi cho nước trong trở lại, múc lên đun sôi để nguội rồi uống
dần.
* Hấp táp pháp là phương pháp là phương pháp cho người bệnh ngậm một ít
nước rồi từ từ nuốt xuống họng. Theo cổ nhân, phương thức này có
tác dụng điều hòa tỳ vị, lợi họng giải độc thường được dùng để
chữa các bệnh đường tiêu hóa, hầu họng...Ví như, để chữa hóc xương
cá, cho người bệnh uống một cốc nước rồi ngậm miệng nuốt nhanh
xuống họng ; để chữa chứngtrong bụng ậm ạch khoa chịu về mùa hè
dùng nước tương chua hòa một chút bột gừng khô, ngậm rồi nuốt dần
xuống họng.
* Hàm thấu pháp là phương pháp cho người bệnh ngậm nước, súc miệng rồi nhổ
ra, có tác dụng làm sạch khoang miệng, giải độc lợi họng, tiêu sưng
giảm đau, thường dùng trong các bệnh khoang miệng. Ví như, để chữa
chứng miệng hôi, hàng ngày vào buổi sáng nên ngậm và súc miệng bằng
nước giếng mới đào ; để chữa chứng hư hỏa nha thống (viêm quanh răng)
nên dùng nước ép địa cốt bì pha với nửa bát nước giếng và nửa bát
nước sông ngậm và súc miệng.
* Xạ lâm pháp
là phương pháp dùng nước phun lên toàn thân hoặc tại chỗ để trị
bệnh, có tác dụng làm sạch da, khai khiếu tỉnh thần, chỉ huyết tán
ứ, trừ độc khứ uế, thường dùng trong các bệnh ngoài da. Ví như, dể
chữa chứng tay chân sưng nề dùng nước giếng mới đào phun rửa tại chỗ
sao cho da bớt nóng đỏ thì ngừng ; để chữa say nắng, đặt bệnh nhân
nàm vào chỗ mát và thoáng gió, lấy nước ấm phun vào rốn.
* Tháp tứ pháp là phương pháp dùng nước lạnh hoặc nước nóng thấm đẫm vào
khăn rồi đắp lên nơi bị bệnh, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, thông
lạc chỉ thống, khai khiếu tỉnh thần, thường dùng trong chữa trị
trúng độc, ngất và các bệnh ngoại khoa.
* Tốn thủy pháp là phương pháp dùng nước tưới lên toàn thân hoặc nơi bị bệnh,
có tác dụng tỉnh thần, chống co giật, thu sáp (làm co) và cầm máu.
Ví như, để chữa chứng đột nhiên co giật, cửu khiếu xuất huyết, dùng
nước giếng lạnh tưới phun lên mặt ; để chữa chứng sa trực tràng dùng
nước lạnh tưới phun lên toàn thân gây cảm giác rét run khiến trực
tràng co lên nhanh chóng.
* Thủy quán pháp là phương pháp thụt nước vào mũi miệng hoặc hậu môn, có tác
dụng khai khiếu tỉnh thần, nhuận họng trừ đàm, thanh nhiệt giải độc,
nhuận tràng thông tiện. Ví như, để chữa chứng đại tiện bí kết lâu
ngày ở người già dùng nước sạch thụt vào hậu môn, nín chịu một
lúc rồi đi đại tiện. Thủ thuật này, về nguyên tắc, tương tự như kỹ
thuật thụt tháo đại tràng của y học hiện đại, nhưng vấn đề ở chỗ
nó đã được tiến hành từ hàng trăm năm nay.
* Dược dục pháp là phương pháp dùng nước có pha dịch chiết thảo dược hoặc
trực tiếp dùng nước sắc thảo dược để tắm rửa toàn thân hay tại
chỗ. Đây là cách chữa bệnh hết sức độc đáo của y học cổ truyền,
vừa dùng tác nhân vật lý vừa lợi dụng sức thuốc để đạt mục đích
trị liệu, được dùng để chữa hàng trăm chứng bệnh thuộc nhiều chuyên
khoa khác nhau. Ví như, để chữa cảm mạo có thể ngâm hai chân trong
nước sắc gừng tươi ; để chữa phong thấp có thể ngâm rửa các khớp
sưng đau trong nước sắc của các vị thuốc khu phong trừ thấp như ngư
tất, độc hoạt, tần giao... ; để chữa chứng mày đay có thể dùng nước
sắc các vị thuốc như phòng phong, kinh giới, đơn đỏ, sà sàng tử,
bạch tiên bì, khổ sâm...để tắm rửa.
* Ôn tuyền liệu pháp là phương pháp dùng nước suối nóng để chữa
bệnh. Theo cổ nhân, nước suối nóng có vị ngọt, tính ấm, có tác
dụng cổ động dương khí, ôn thông kinh lạc, hành khí hoạt huyết và bổ
dưỡng. Đây cũng là phương pháp được y học hiện đại sử dụng rộng
rãi.
Tóm lại, việc dùng nước để chữa
bệnh trong y học cổ truyền đã có một lịch sử rất lâu đời và nội
dung hết sức phong phú. Ngày nay, nhiều phương pháp tỏ ra không còn
thích hợp nữa và cũng ít được sử dụng. Tuy nhiên, với tinh thần
“gạn đục khơi trong”, nắm lấy cái “thần” là chính, chắc chắn thủy
liệu pháp của y học cổ truyền vẫn còn sức hấp dẫn đối với chúng
ta, nhất là trong điều kiện nguồn tài nguyên nước của chúng ta hết
sức phong phú.
Hoàng Khánh Toàn
Cảm ơn bác đã chia sẽ cách dùng nước trong Đông y cho mọi người. Nhưng với nước sông và nước giếng hiện nay thì làm sao ai dám uống....
Trả lờiXóa