KINH NGHIỆM DÂN GIAN CHỮA BỎNG NHIỆT
Bỏng
nói chung và bỏng do nhiệt nói riêng là một trong những bệnh lý thường gặp
trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Bỏng do nhiệt có thể là nhiệt khô như lửa,
tia lửa điện, kim loại nung nóng...hoặc là nhiệt ướt như nước sôi, hơi nóng, thức
ăn nóng...Khi bị bỏng nhiệt, cần nhanh chóng loại bỏ nguyên nhân như dập tắt lửa,
cởi bỏ quần áo thấm nước hay dầu mỡ sôi, đưa bệnh nhân ra khỏi vùng gây bỏng...rồi
tiến hành các biện pháp sơ cứu ban đầu. Tiếp đó, tùy theo điều kiện và tình trạng
bệnh lý cụ thể có thể sử dụng các kinh nghiệm dân gian sau đây :
- Nếu vết bỏng chưa gây xuất
hiện nốt phỏng, dùng bông hoặc gạc sạch tẩm nước muối loãng để nguội hoặc dấm
thanh đắp vào vị trí tổn thương, người bệnh có thể cảm thấy rát xót nhưng chống
được hiện tượng phồng da và giúp làm sạch vết bỏng.
- Gừng tươi và vôi tôi lượng
bằng nhau, giã nát gừng rồi hòa với vôi tôi thành một thứ hồ loãng rồi bôi vào
vết bỏng, tránh dùng ở gần mắt.
- Cây chuối tươi rửa thật sạch,
thái nhỏ rồi giã vắt lấy nước, tẩm bông đắp vào vị trí tổn thương. Dùng chuối
tây hay chuối tiêu đều được,
- Lấy lá mướp non rửa thật sạch,
giã nát đắp lên vết bỏng để hạ nhiệt và tránh phỏng da.
- Thân cây chuối non 1 đoạn,
bóc bỏ bẹ lấy lõi rồi vắt lấy nước bôi hoặc tẩm bông đắp vào vết bỏng giúp
tránh hình thành nốt phỏng và nếu có nốt phỏng thì sẽ làm đỡ rát và tạo điều kiện
cho vết thương mau lành.
- Lá sống đời (lá thuốc bỏng)
3-4 cái rửa thật sạch, giã nát rồi đắp lên vết bỏng. Có thể kết hợp với các loại
lá như lá mướp non, lá khoai lang, lá mít non.
- Lá trầu không hoặc lá
xương sông lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước rồi bôi lên vết bỏng.
- Lá cây khoai nước rửa sạch,
giã nát đắp vào vết bỏng.
- Mỡ rắn, mỡ trăn (nếu được
mỡ trăn “mặt hổ” hay trăn đất là tốt nhất) hoặc mỡ rùa hoặc mỡ cá mập đã rán
thành dầu bôi nhiều lần lên vết bỏng.
- Dùng mật ong hoặc dầu cá
hoặc dầu vừng bôi vào vết bỏng.
- Da con sứa ở biển rửa sạch,
đắp lên vết bỏng.
- Giun đất 5-7 con rửa sạch,
đường trắng 5g, hai thứ cho vào một cái bát, đậy kín chờ cho giun tan thành nước,
dùng nước này bôi vào vết bỏng.
- Khoai tây lượng vừa đủ rửa
sạch, luộc chín, bóc bỏ vỏ rồi nghiền nát, đắp vào vết bỏng.
- Đậu phụ 1 miếng nghiền
nát, trộn với đường trắng lượng vừa đủ rồi đắp lên vết bỏng, khi khô lại thay bằng
miếng khác.
Các bài thuốc
trên đây chỉ dùng để sơ cứu ngay sau khi bị bỏng và đối với bỏng độ I (bỏng nhẹ,
đỏ rát ngoài da, không gây nốt phỏng), độ II (có nốt phỏng da nhưng vòm mỏng, nền
hồng, rát nhiều) với diện tích nhỏ từ 5-10% ở vị trí thông thường, không dùng
cho vùng nguy hiểm như mắt, tầng sinh môn...Tiếp đó, sau chừng vài giờ nên dùng
thêm thuốc bột rắc lên tổn thương.
- Củ khúc khắc lượng vừa đủ
đem đốt thành than đen (loại bỏ phần cháy quá thành bột trắng và phần chưa cháy
hết). Nếu vết bỏng không có nốt phỏng hoặc có nốt phỏng nhưng chưa vỡ ra chảy
nước nên hòa với dầu vừng, dầu lạc hoặc mỡ lợn rồi bôi lên tổn thương, nếu có dầu
cá hoặc vazơlin thay thì càng tốt. Nếu vết bỏng chảy nước nhiều hoặc đã loét
thì nên rắc bột khô.
- Để chữa vết bỏng đã loét
chảy nước hoặc có mủ dùng nhân trung bạch (cặn nước tiểu) sao vàng kỹ tán bột 3
phần, hoàng liên sao qua tán mịn 1 phần, trấu lúa tám thơm đem đốt thành than
10 phần, tất cả trộn đều. Rửa sạch vết bỏng bằng nước muối nhạt (5-8g muối
trong 1000ml nước đun sôi để nguội) rồi rắc bột thuốc thành một lớp mỏng, chỉ 1
lần là đủ, chỗ nào còn chảy nước vàng thì rửa và rắc thuốc vài lần là được. Chú
ý : mỗi lần làm cần cắt lọc hết các mảng da đã chết.
- Củ ráy dại 1 phần, lòng trắng
trứng gà 1/2 phần, dầu vừng hoặc lạc 1/2 phần, nếu có mỡ rắn hoặc mỡ trăn thay
thế thì càng tốt. Giã củ ráy vắt lấy nước rồi trộn đều với lòng trắng trứng và
dầu vừng thành một thứ cao loãng rồi bôi lên các nơi bị loét, chưa mọc da non.
Có thể hơ trên bếp lửa cho hơi âm ấm để quấy thuốc cho đều.
- Lòng đỏ trứng gà lượng vừa
đủ cho vào xoong không có nước đặt trên một chảo cát, đun nhỏ lửa bên dưới cho
lòng trứng chảy dầu, dùng thìa nhỏ hớt lấy dầu ngay. Dùng dầu này bôi lên các vết
bỏng đã phỏng da, đã loét hoặc hoại tử mỗi ngày 2 lần.
- Để chữa các vết bỏng đã bị
lở loét nhiễm trùng dùng lá trầu không tươi 50g, phèn chua 20g đem sắc với 1500
ml nước lấy 1000 ml để rửa vết hàng ngày. Sau đó, lấy lá mỏ quạ hoặc lá bồ cu vẽ
1 phần, nghệ vàng 1 phần và lá mướp khô 1 phần, tất cả đem sao giòn, tán thành
bột mịn rắc lên tổn thương 2 lần trong ngày.
- Xương chó đen 1 bát đem đốt
cháy thành than rồi tán bột mịn, hòa với dầu vừng thành dạng cao lỏng, dùng
bông thấm bôi vào vết bỏng đã lở loét.
Có thể nói,
kinh nghiệm dân gian trị liệu bỏng nhiệt của y học cổ truyền là hết sức phong
phú, đó là chưa nói đến mảng điều trị bệnh lý này theo phương thức “biện chứng
luận trị” chính thống. Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức và phương tiện
trong thời xưa, nhiều bài thuốc không đảm bảo tính vô khuẩn nên không còn được
sử dụng nữa. Vả lại, trong khi thực hành chữa bệnh, không ít trường hợp vì bào
chế cẩu thả, dùng thuốc không đúng cách và mang nặng tính “lang băm”, một số
người thầy thuốc đông y đã để xảy ra những hậu quả rất đáng tiếc cho người bệnh.
Vậy nên, khi sử dụng những bài thuốc trên đây rất cần sự lựa chọn cẩn thận, chỉ
định chính xác và đảm bảo tính vô khuẩn ở mức cao nhất.
Cũng cần
nói thêm là, y học hiện đại đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc
chinh phục bệnh bỏng, đem lại sự sống và sức khỏe cho người bệnh. Tuy nhiên,
cũng còn không ít vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và bổ khuyết. Vậy nên, việc
tìm trong vốn cổ những kinh nghiệm chữa bỏng của người xưa để thừa kế, nghiên cứu,
chỉnh lý và ứng dụng thiết nghĩ cũng là một việc hữu ích.
Hoàng
Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét