VÌ SAO Y HỌC CỔ
TRUYỀN RẤT COI TRỌNG VẤN ĐỀ ĂN KIÊNG ?
Ăn kiêng là một vấn đề rất quan trọng và
lý thú của y học cổ truyền (YHCT) và cũng là bản sắc của văn hoá ẩm thực Việt
nam. Trong Hoàng đế nội kinh, cuốn sách thuốc cổ nhất còn lưu truyền đến nay,
đã ghi lại khá nhiều nội dung liên quan đến việc ăn kiêng. Rồi lần lượt các y
thư kinh điển khác như Thương hàn luận, Trửu hậu bị cấp phương, Ngoại đài bí
yếu, ẩm thực chính yếu, Bản thảo cương mục...đều có đề cập đến vấn đề này ở
các mức độ khác nhau. Ở nước ta, rải rác trong các trước tác của mình, Tuệ Tĩnh
và Hải Thượng Lãn Ông cũng đều có những kiến giải khá sâu sắc và chi tiết về
việc ăn kiêng khi dùng thuốc và trong suốt quá trình phòng và chữa bệnh. Vậy
thì, vì sao YHCT lại coi trọng việc ăn kiêng đến như vậy ?
@ - Trước hết, là vấn đề ăn
kiêng về số lượng. YHCT thường xuyên khuyên con người, bất kể tuổi tác, giới
tính, bị bệnh hay không bị bệnh, đều phải ăn uống có chừng mực và điều độ,
tránh ăn no quá mức hoặc để đói quá lâu. Sách Tố vấn viết : “Ăn uống bị
bội thực thì ruột và dạ dày sẽ bị tổn thương”. Hải Thượng Lãn Ông cũng khuyên
một cách rất chí lý : “trong cái no nên để một chút đói, chứ đừng để trong cái
đói có thừa một chút no”.
Trong YHCT, tỳ và vị là hai bộ phận có ý
nghĩa hết sức quan trọng, đóng vai trò chủ yếu trong việcthu nạp, tiêu hoá, hấp
thu và phân bố chất dinh dưỡng, tạo nên cái gọi là “tinh hậu thiên”, thứ
vật chất cơ bản để duy trì sự sống cùng với “tinh tiên thiên” vốn được
bẩm thụ từ tinh cha huyết mẹ. Nếu ăn uống vô độ lâu ngày sẽ làm ảnh hưởng trực
tiếp đến công năng của tỳ vị, đặc biệt là ở những người tỳ vị vốn đã hư yếu,
tạo nên các hội chứng bệnh lý như chứng Tỳ khí hư, biểu hiện bằng các
triệu chứng ăn kém, chậm tiêu, hay đầy bụng, đại tiện lỏng hoặc nát, tay chân
vô lực, dễ mệt, có thể phù nhẹ, sắc mặt vàng nhợt, chất lưỡi nhợt, mạch hư
hoãn.
@ - Thứ hai, là vấn đề ăn
kiêng về chất lượng. YHCT cho rằng, mục đích ăn uống thường bao gồm hai loại :
ăn để bồi bổ (thực bổ) và ăn để phòng và chữa bệnh (thực trị). Đối tượng sử
dụng có thể là người bình thường hoặc những người đang mắc một hay nhiều bệnh
lý nào đó. ở người bình thường, thể chất mỗi người vốn khác nhau, có người thể
chất thiên hàn hay thiên nhiệt, thiên âm hoặc thiên dương. ở người bị bệnh thì
tình trạng thiên lệch giữa âm và dương, giữa hàn và nhiệt lại càng rõ ràng tạo
nên sự mất cân bằng trầm trọng, cần phải can thiệp bằng các biện pháp dùng
thuốc hay không dùng thuốc để nhằm mục đích tái lập lại thế cân bằng vốn có.
Trong khi đó, thức ăn nói chung dù là
thuốc hay không dùng làm thuốc, theo YHCT đều có tính vị hàn lương, ôn nhiệt,
cay đắng mặn ngọt... khác nhau. Bởi thế, về nguyên tắc việc dùng các loại thực
phẩm, thức ăn cũng tương tự như việc sử dụng các vị thuốc của y học cổ truyền.
Nghĩa là, cũng phải nắm được đầy đủ tính vị của chúng để từ đó vận dụng sự
thiên thắng thiên suy của đồ ăn thức uống mà điều chỉnh sự thiên thắng hoặc
thiên suy của tình trạng bệnh tật trong cơ thể con người, tuân thủ triệt để
theo nguyên tắc “hư thì bổ, thực thì tả” của YHCT. Ví dụ, người dương hư với
biểu hiện toàn thân sợ lạnh, sắc mặt trắng bệch, khó thở, mệt mỏi, đại tiện
lỏng loãng, tiểu tiện trong dài, liệt dương, di tinh...phải trọng dụng các vị
thuốc và thực phẩm có tác dụng bổ dương, ôn dương, trợ dương, đồng thời phải
kiêng kị các thức ăn có tính âm hàn như dưa hấu, dưa chuột, thanh long, ngó
sen, ba ba, hải sâm, ngao sò, mộc nhĩ...Người âm hư có biểu hiện chứng trạng hư
nhiệt như có cảm giác hâm hấp sốt về chiều, đau đầu, chóng mặt, lòng bàn tay và
bàn chân nóng, người gầy, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ...phải trọng dụng các
thực phẩm và vị thuốc có tính bổ âm, tư âm, dưỡng âm và kiêng kị các vị thuốc
và thực phẩm có tính ôn nhiệt như thịt chó, thịt dê, nhãn, vải, mít, gừng, tỏi,
hạt tiêu...
@ - Thứ ba, ở những người bị
bệnh đang phải dùng thuốc YHCT còn cần phải kiêng các thức ăn có tính đối
kháng, dễ làm mất hoặc hạn chế công dụng của thuốc. Đầu tiên là những thực phẩm
có tác dụng đối ngịch với thuốc, ví như trường hợp bị nhiệt chứng đang phải
dùng các thuốc có tính mát lạnh để thanh nhiệt, giải nhiệt thì không nên dùng
các thức ăn có tính ấm nóng, vì như vậy vừa hạn chế công năng của thuốc, vừa
làm cho tình trạng bệnh lý nặng lên. Thứ hai, là những thực phẩm có tính tương
kị với từng vị thuốc cụ thể, ví dụ : thiên môn kị cá chép, bạch truật kị đào và
mận, thục địa kị hành, cà rốt và hẹ...Trên thực tế, sự tương kị này mang tính
tổng kết kinh nghiệm của cổ nhân, còn đứng về phương diện hoá học và dược lý
học hiện đại thì dường như chưa có câu trả lời thích đáng. Tuy nhiên, điều này
cũng chứng tỏ vấn đề ăn kiêng đã được người xưa xem xét tỉ mỉ và tổng kết rất
công phu.
@ - Thư tư, là vấn đề ăn kiêng
theo mùa. Theo triết học phương Đông, con người là một chỉnh thể, một vũ trụ
thu nhỏ, nhưng con người không thể thoát khỏi sự chi phối của vũ trụ lớn, của
môi trường bên ngoài. Bởi vậy, một trong những học thuyết chi phối YHCT là học
thuyết “thiên nhân hợp nhất”, nghĩa là cơ thể con người luôn luôn thống nhất và
chịu sự chi phối của hoàn cảnh bên ngoài. Từ đó, mọi hoạt động sống của con
người dù muốn hay không vẫn phải thuận theo các quy luật của tự nhiên, trong đó
có cả vấn đề ăn uống. Cổ nhân nói : “Nhân nhân chế nghi, nhân địa chế nghi,
nhân thời chế nghi”, nghĩa là ẩm thực phải tuỳ người, tuỳ điều kiện địa lý và
tuỳ điều kiện khí hậu, thời tiết, tức là ăn uống phải theo mùa. Trên thực tế,
với sự phát triển của công nghệ sinh học, giao thông và thông tin hiện nay, vấn
đề ăn uống “tuỳ thời” đã phai nhạt khá nhiều.
@ - Cuối cùng, là vấn đề kiêng
kị sự thiên lệch, nghĩa là không nên ăn quá nhiều, quá lâu một thứ nào đó. Tại
sao như vậy ? Y thư cổ đã giải thích rất rõ : “Năm vị khi vào cơ thể, đi vào
các cơ quan tạng phủ và có thể gây bệnh. Chua đi vào gân, ăn nhiều nó người sẽ
mỏi mệt ; mặn đi vào máu, ăn nhiều nó sẽ khát nước ; cay đi vào khí, ăn nhiều
nó sẽ hại tim...” (Linh khu - Ngũ vị luận). Ngay cả khi đã lựa chọn được các
thức ăn phù hợp với thể chất và tình trạng bệnh tật của cơ thể, người xưa cũng
khuyên không nên dùng quá mức vì có thể đem lại hậu quả ngược lại, “vật cực tắc
phản”, “âm cực sinh dương”, “dương cực sinh âm” chính là như vậy. Ví dụ : ngời
bị bệnh thuộc thể Â m hư thì nên
dùng các thức ăn có tác dụng bổ âm, dưỡng âm, nhưng không nên dùng quá nhiều vì
âm thịnh có thể khắc phạt, làm hại đến dương khí trong nhân thể.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề ăn kiêng
trong y học cổ truyền là hết sức quan trọng và tuân thủ một cách chặt chẽ theo
nguyên tắc chỉ đạo dựa trên lý luận có tính biện chứng của triết học phương
Đông. Đồng thời, ăn kiêng cũng là một biểu hiện cụ thể của bản sắc văn hoá dân
tộc trong ăn uống. Tuy nhiên, đây là một vấn đề còn hàm chứa nhiều ẩn số chưa
được giải thích rõ ràng dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và cũng tỏ ra khá
phức tạp khi ứng dụng vào thực tế cuộc sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét