Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Magiê, chất khoáng cần thiết

MAGIÊ, KHOÁNG CHẤT CẦN THIẾT CHO CƠ THỂ

     Khi nói đến các khoáng chất đa lượng trong cơ thể, chúng ta thường chỉ đề cập nhiều đến các chất như Canxi, Kali, Natri, Phospho mà ít bàn đến một khoáng chất không kém phần quan trọng đối với cơ thể là Magiê (Mg). Sự có mặt của Mg trong cơ thể sống lần đầu tiên được mô tả năm 1858, những chức năng quan trọng của khoáng chất này đối với cơ thể con người được tìm ra sau năm 1950 và ngày nay Mg được coi là một trong những khoáng chất cơ bản trong nhân thể.
1. Phân bố
     Khi sinh ra, con người có khoảng 0,5g Mg, chúng được truyền từ mẹ sang con chủ yếu trong giai đoạn sau của thai kyfNam trưởng thành chứa khoảng 40g Mg, 60% trong số đó ở trong xương. Trong huyết tương có khoảng 1% lượng Mg của cơ thể, chỉ đứng sau Natri. Một nửa trong số Mg này ở dưới dạng ion tự do, 1/3 gắn với albumin, phần còn lại tham gia vào nhiều thành phần khác. Trong các mô mềm, Mg tập trung nhiều ở trong tế bào hơn ngoài tế bào.
2. Chức năng
     Magiê có vai trò sống còn trong hàng trăm các phản ứng sinh hóa trong cơ thể. Trong đó có những giai đoạn chủ chốt của việc tích trữ và sử dụng năng lượng, chuyển hóa đường, béo, đạm và acid nucleic. Ở gian bào, Mg đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn truyền xung động thần kinh và co cơ. Thiếu nó sẽ bị đau đầu, co cứng cơ, rối loạn các hoạt động cơ. Vì lý do này, từ rất lâu người ta đã dùng magnesium chữa chứng đau đầu, an thần, chống các stress. Ngày nay, magnesium còn được dùng chống đau bụng kinh, điều hoà kinh nguyệt, chống táo bón...
     Tác dụng này của Mg đối lập với Canxi (Ca), Ca kích thích cơ cơ, Mg làm giãn cơ. Tác dụng đối lập của Mg và Ca còn được thể hiện trong hấp thu và bài tiết : nếu một trong các ion này được hấp thu hoặc tăng tiết thì ion kia sẽ bị giảm hấp thu hoặc bài tiết với một tỷ lệ tương ứng.
     Magiê cần thiết cho việc bài tiết hormone tuyến cận giáp và hoạt động của nó trên thận, xương và ruột non. Chúng còn tham gia vào các phản ứng chuyển đổi vitamin D thành dạng hoạt động sinh học. Sự có mặt của Mg cần thiết cho sự chuyển hóa của Ca, p, Na, K và một số vitamin nhóm B. Vì lẽ này mà Mg giúp cho hệ xương, răng khoẻ mạnh và ngăn không cho calcium lắng đọng thành sỏi thận, sỏi
 Mật, gai cột sống.
3. Hấp thu và chuyển hóa
     Magiê được hấp thu tại ruột non với sự phối hợp của một chất vận chuyển đặc hiệu.Khoảng 35-40% lượng Mg trong chế dộ ăn được hấp thu, tỷ lệ hấp thu cao hơn  với khẩu phần chứa ít Mg và ngược lại. Hiệu quả hấp thu bị giảm khi có mặt của Ca, Alcohol, phosphate và chất béo, ngược lại hấp thu được tăng cường khi có mặt của vitamin D. Thận có vai trò quan trọng trong điều hòa Mg : tăng tái hấp thu khi Mg khẩu phần ăn thấp, tăng bài tiết khi khẩu phần nhiều Mg. Mg bị mất nhiều qua thận khi tiêu thụ Alcochol và thuốc lợi tiểu.
4. Thiếu hụt
     Thiếu hụt do khẩu phần ăn rất hiếm do chức năng tự điều hòa của thận. Bệnh thiếu hụt Mg có thể xuất hiện do đói ăn kéo dài, nôn kéo dài, chấn thương ngoại khoa, Ca trong khẩu phần ăn quá cao, bệnh tiêu chảy do thức ăn đi qua đường tiêu hóa quá nhanh.
     Hội chứng của mức Mg trong huyết tương thấp là dễ bị kích thích, căng thẳng thần kinh, co giật , chuột rút, kết quả của tăng kích thích thần kinh, tăng co bóp cơ. Một trong những dạng thiếu Mg được biết rõ là dạng giật cứng do Mg thấp, dấu hiệu này thường xuất hiện khi chế độ ăn kém Mg kèm theo những điều kiện tăng bài tiết và kém hấp thu Mg.
     Một trong những hậu quả của thiếu hụt Mg ít được chú ý là tăng Ca trong các mô mềm, tăng tạo sỏi thận. Thiếu Mg còn gây giãn mạch, làm xuất hiện các vết rạn đỏ trên mặt da. Gần đây, việc nghiên cứu và phân tích Mg chính xác hơn cho thấy giảm Mg huyết có thể liên quan đến một số trường hợp đột tử.
5. Đối tượng cần bổ sung Mg
     Những đối tượng sau đây được khuyến cáo bổ sung: người nghiện rượu bia; người hoạt động cần nhiều năng lượng (vận động viên, làm việc chân tay nặng); người đang dùng viên ngừa thai chứa estrogen; người bị bệnh tiểu đường týp II, tăng huyết áp; người lớn tuổi (trong đó có người mãn kinh) bị bệnh tim mạch. Những người có bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp tim mạch khi dùng thức ăn giàu Mg hay thuốc chứa Mg cần tham khảo ý kiến thầy thuốc.
6. Nguồn thực phẩm cung cấp Mg
     Magiê có mặt ở hầu hết các loại thực phẩm. Rau quả là nguồn nhiều Mg nhất. Mgiê còn là thành phần tạo clorophyl, màu xanh đậm của lá cây tham gia vào việc thu năng lượng mặt trời trong quá trình quang hợp. Rau lá xanh là nguồn cung cấp Mg chủ yếu cho cơ thể. Khoảng 80% Mg ở hạt ngũ cốc bị mất đi trong xay xát. Nước uống có thể chứa 1-16ppm tùy thuộc vào nước mềm hoặc nước cứng, chúng cung cấp khoảng 1/5 lượng Mg tiêu thụ hàng ngày. Nước biển có hàm lượng Mg cao (1300ppm) nhưng thường kèm theo Na.
     Theo tài liệu dinh dưỡng học của Trung Quốc, những thực phẩm có hàm lượng Mg cao (mg/100g thực phẩm) là : dương đào 99,4, măng khô 33, cùi nhãn tươi 98, chuối tiêu 45, chuối lá 36, dứa 45,2, hạt dẻ 41,9, rau chân vịt 34,3, rau dền xanh 87,7, rau dền đỏ 60,5, hoa hồi 45,2, rau cần (lá) 45,4, củ từ 33,1, ngồng cải trắng 36,1, gạo tẻ 63, gạo nếp 45,5, bột mì loại 1 51,1, bánh bao không nhân 48,2, đại mạch 68,3, kê vàng 55,9, kê thường 93,1, ngô vàng 60, ngô trắng 93,4, bột ngô 75,2, hạt cao lương đỏ 53,8, bột cao lương đỏ 94, đậu tương 173, vỏ đậu xanh 184,4, đậu đen 157,3, đậu đỏ nhỏ 126,7, đậu xanh 147,8, đậu đũa 193,8, đậu hà lan 125,4, kỷ tử 92, đậu rán 155,8, đậu phụ khô 118,3, óc đậu 174,9, giá đậu tương 56, khoai lang khô 80,6, bột khoai lang 79,1, ớt khô 220, rau kim châm 49, dưa cải ớt 56, nấm khô 140, nấm đông cô 120, tảo biển 460, cá diếc 31, tương đậu 78,4, tương vừng 320,5, xì dầu loại I 49,5, xì dầu loại II 87,7.


                                                                                   Hoàng Khánh Toàn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét