NGÀY
XUÂN, NÓI CHUYỆN
VỀ
CÔNG DỤNG LÀM THUỐC CỦA HOA
Có lẽ, trên thế gian này, không dân tộc
nào lại không yêu hoa. Người ta yêu hoa say đắm không chỉ vì sắc hoa làm đẹp
cho đời, hương hoa nồng nàn sinh khí, cũng không chỉ vì có thể "mượn"
hoa để nói chuyện đời như thi hào Nguyễn Khuyến gửi gắm lòng mình trong bài thơ
Vịnh cúc: '' Bách hoa khai thời nhĩ vị khai, bách hoa lạc hậu nhĩ phương
lai. Độc đương hàn tuế thùy vi ngẫu? Bất lạc phương tâm chân khả ai!" (Khi
trăm hoa nở thì người chưa nở, trăm hoa rụng rồi thì mới thấy người đến. Một
mình chọi với rét mướt hàng năm, lấy ai làm bạn? Giữ được tấm lòng thơm không
lạt, nghĩ thật đáng thương!), mà còn vì tự cổ chí kim, người phương Đông đã
dùng hoa làm thuốc để phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe.
@ - Hoa được dùng làm thuốc từ bao giờ?
Thật khó có thể trả lời câu hỏi này một
cách chính xác, nhưng căn cứ vào những sử liệu còn lưu giữ được thì hoa đã có
mặt trong đời sống con người từ rất sớm với vai trò là thức ăn và thuốc chữa
bệnh. Cổ thư Hoài nam tử đã ghi lại truyền thuyết Thần Nông ở vào thời
kỳ cổ đại của Trung quốc nếm hàng trăm cỏ cây hoa lá, phối với lục phủ ngũ tạng
của người, phân biệt tính vị, để trị trăm bệnh. Vào thời Chiến Quốc, thi nhân
Khuất Nguyên trong tác phẩm bất hủ Ly tao đã viết câu thơ: "Triều
ẩm mộc lan chi trụy lộ hề, tịch xan thu cúc chi lạc anh'' (sáng sớm uống sương
sa từ cây mộc lan, chiều tối ăn hoa rơi của cây cúc mùa thu), đủ thấy người
đương thời đã biết dùng hoa để làm thức ăn và làm thuốc. Trong Thần nông bản
thảo kinh, bộ sách dược học sớm nhất của Trung quốc, đã thấy xuất hiện một
số loại hoa như cúc hoa, tân di, khoản đông hoa, tuyền phúc hoa, nguyên hoa,
nhiêu hoa, náo dương hoa...Sách Bản thảo cương mục của nhà bác học Lý
Thời Trân cũng đã thu thập ước chừng 100 loại hoa làm thuốc. Nhưng có lẽ trong
lịch sử của y học cổ truyền, người nghiên cứu sâu nhất về chữa bệnh bằng hoa
chính là danh y Trương Học Mẫn (đời Thanh, Trung quốc) với hai cuốn sách Bản
thảo cương mục thập di ghi lại 33 loại hoa và Lợi tế thập nhị chủng
thư mục dành riêng quyển 4 bàn về hoa với nhan đề “Hoa dược tiểu danh
lục”, nhưng thật đáng tiếc quyển sách này đã thất truyền.
Dần theo sự phát triển của thời đại, việc
dùng hoa làm thuốc ngày càng trở nên phổ biến và tích luỹ được một kho tàng
kinh nghiệm hết sức quý báu.Trong sách Thương hàn tạp bệnh luận,Y thánh
Trương Trọng Cảnh đời Đông Hán đã dùng khá nhiều hoa trong các phương thuốc nổi
tiếng như : Nguyên hoa trong đơn Thập táo thang, Khoản đông hoa trong đơn Xạ can
ma hoàng thang, Tuyền phúc hoa trong đơn Tuyền phúc hoa thang và Tuyền phúc hoa
đại giả thang, Cúc hoa trong đơn Hầu thị hắc tán, Hồng hoa trong Hồng lam hoa
tửu...Danh y Hoa Đà thời Tam quốc đã sử dụng hoa để chữa bệnh theo phương cách
rất độc đáo: bỏ một vài loại hoa có mùi thơm cùng với xạ hương , đàn hương,
đinh hương...vào trong những túi vải xinh xắn rồi treo lên tường nhà để phòng
chống các chứng bệnh như phế lao, tiết tả... Trong sách Lý thược biền văn,
danh y đời Thanh Ngô Thượng Tiên đã kiến giải rất sâu sắc về việc dùng hoa liệu
pháp cho những người mắc bệnh tinh thần: “Thất tình chi bệnh dã, khán hoa giải
muộn, thính khúc tiêu sầu hữu thắng vu phục dược giả”( đối với bệnh tinh thần,
ngắm hoa nghe nhạc để giải sầu muộn còn hơn cả việc dùng thuốc). Cho đến nay,
một số lượng lớn các loài hoa dùng làm thuốc đã có mặt trong các dược thư hiện
đại của Trung quốc như Toàn quốc trung thảo dược hối biên (168 loại), Trung
dược đại từ điển (254 loại, chiếm 5,3% tổng số các vị thuốc thực
vật).
Ở nước ta,
các sách thuốc của hai vị đại danh y Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông đều có ghi
lại khá nhiều kinh nghiệm dùng hoa làm thuốc chữa bệnh, trong đó có những loại
hoa còn ít hoặc chưa được tiền nhân đề cập đến như hoa dứa dại, hoa phù dung,
xích đồng nam, bạch đồng nữ, hoa khế...
@ - Công dụng chữa bệnh của hoa như thế nào?
Hoa chữa bệnh, trước hết là nhờ ở hương
thơm quyến rũ. Ở Mỹ, qua các cuộc thử nghiệm trên hàng nghìn đối tượng, nhiều
nhà y học và tâm lý học đã chứng minh ảnh hưởng to lớn của hương hoa đối với
tình cảm của con người. Ở Nhật, một số nhà tư bản đã cho phun mùi thơm của hoa
hồng và hoa tử la lan trong công xưởng để kích thích tính hưng phấn của công
nhân nhằm nâng cao năng suất lao động. Ở một số nước như Tadzhikistan , Azerbaidzhan...người
ta còn xây dựng những “bệnh viện hoa”, trong đó người bệnh được chữa trị bằng cách vừa cho
thả hồn trong tiếng nhạc du dương lại vừa được tận hưởng hương thơm quyến rũ
của các loại hoa. Ở Pháp, kết quả một số thống kê cho thấy, những nữ công nhân
tiếp xúc nhiều năm với hương liệu tự nhiên trong các nhà máy sản xuất nước hoa
hầu như không mắc các bệnh đường hô hấp.
Vậy thì, vì sao mùi hương của hoa
lại có tác dụng huyền diệu như vậy? Bởi vì hoa đã tiết ra nhiều chất thơm, ví
như tinh dầu chanh, tinh dầu quế, tinh dầu hoa hồng..., trong đó có chứa
alcohol, xetone, este có tác dụng sát trùng, điều hoà chức năng trung khu thần
kinh và hạn chế tác hại của vi sinh vật gây bệnh. Người ta nhận thấy rằng, màu
sắc và đặc tính chất thơm của hoa khác nhau thì công dụng cũng khác nhau. Hoa
màu tím có thể làm cho phụ nữ có thai trở nên điềm tĩnh ; hoa màu hồng làm bệnh
nhân ăn ngon miệng hơn ; hoa màu đỏ sẫm có thể làm tăng huyết áp ; hoa đinh
hương chứa nhiều eugenol và oleanolic acid có tác dụng giảm đau, trấn tĩnh cho
những bệnh nhân đau răng ; hoa quế giàu chất thơm có tác dụng hoá đờm, giảm ho,
bình suyễn cho bệnh nhân viêm phế quản mạn tính ; hoa hồng và hoa nhài chứa
nhiều citronellol, linalool có khả năng giúp cho người bị viêm họng, viêm
amydal cảm thấy dễ chịu...
Hoa chữa bệnh còn nhờ có một bộ phận cấu
thành hết sức quan trọng, đó là phấn hoa. Từ xưa đến nay, tác dụng kỳ diệu của
phấn hoa đã được cả thế giới công nhận. Trong thần thoại cổ Hy lạp từng có câu:
“ Thần tiên trên trời không ăn thức ăn như người thường, chỉ ăn phấn hoa”. Hơn
hai nghìn năm trước, sách Thần nông bản thảo kinh đã khuyên nên dùng
phấn hoa bồ hoàng làm thuốc loại thượng phẩm để bồi bổ. Khoa học hiện đại đã
chứng minh, phấn hoa được cấu thành từ gần 100 hợp chất thiên nhiên, trong đó
có chứa một lượng lớn protid, lipid, glucid, vitamin, các loại men, hor mon và
nguyên tố vi lượng có giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh rất tốt. Nhiều công trình
nghiên cứu đã chứng minh, đối với các chứng bệnh như suy nhược thần kinh, suy
nhược cơ thể, viêm ruột, viêm gan, viêm dạ dày, tiểu đường, thiếu máu, bệnh lý
mạch máu não, di chứng rối loạn tuần hoàn não, viêm tiền liệt tuyến, hội chứng
tiền mãn kinh..., phấn hoa có tác dụng điều trị hỗ trợ khá tốt.
Cuối cùng, hoa chữa bệnh là nhờ tác dụng
mang tính tổng hợp của các bộ phận cấu thành. Theo quan niệm của y học cổ
truyền, mỗi loại hoa đều có tính, vị khác nhau và có khả năng đi vào các đường
kinh không giống nhau, tạo nên công dụng trị liệu có tính đặc thù. Cụ thể : (1)
Tác dụng sơ phong tán nhiệt, chuyên dùng để chữa các chứng bệnh
vùng đầu mặt, ví như cúc hoa, kim ngân hoa, tân di hoa, mật mông hoa, chi tử
hoa, cát căn hoa...;(2) Tác dụng hoá đàm chỉ khái, chuyên chữa
các bệnh đường hô hấp, ví như khoản đông hoa, dương kim hoa, đỗ quyên hoa, hoa
hublông...;(3) Tác dụng thanh nhiệt lý khí, chuyên dùng chữa bệnh
đường tiêu hoá, ví như tuyền phúc hoa, kim ngân hoa, phù dung hoa, biển đậu
hoa, thạch lựu hoa, hoè hoa...;(4) Tác dụng hoạt huyết hoá ứ,
chuyên trị các bệnh tim mạch, ví như kê quan hoa, hồng hoa, cúc hoa, dã cúc
hoa, dương kim hoa...;(5) Tác dụng hành huyết chỉ đới chuyên chữa
các bệnh phụ khoa, ví như nguyệt lý hoa, linh lăng hoa, hồng hoa, kê quan hoa,
biển đậu hoa...;(6) Tác dụng lương huyết giải độc, chuyên trị các bệnh
da liễu, ví như đào hoa, hạnh hoa, liên hoa, đinh hương hoa, dương kim hoa, kim
ngân hoa...;(7) Tác dụng giải uất, trấn tĩnh, chuyên dùng cho các bệnh
thần kinh, ví như dương kim hoa, hoàng nguyên hoa, thiên lý hoa, liên hoa...
@ - Khi dùng hoa chữa bệnh cần chú ý gì?
Trước hết,
phải nắm chắc tính vị của chúng. Những loại hoa có tính vị đắng lạnh như chi tử
hoa, hoè hoa, hoa nhài...không nên dùng cho những người tỳ vị hư nhược biểu
hiện bằng các triệu chứng sợ lạnh, kém ăn, đau bụng, đại tiện lỏng nát...Thứ
hai, những loại hoa có tác dụng hoạt huyết thông kinh, phá huyết khứ ứ như đào
hoa, hồng hoa, nguyệt lý hoa, linh lăng hoa, nguyên hoa, phượng tiên
hoa...không được dùng cho phụ nữ có thai hoặc đang hành kinh huyết ra nhiều.
Thứ ba, một số loại hoa có độc như nguyên hoa, dương kim hoa, thạch lựu hoa,
náo dương hoa...khi dùng phải được các thầy thuốc chuyên khoa chỉ định và theo
dõi chặt chẽ. Thứ tư, đối với một số người có cơ địa dị ứng, khi dùng phấn hoa
phải hết sức thận trọng. Cuối cùng, theo kinh nghiệm của cổ nhân, phải nắm được
những điều cấm kị khi phối hợp dùng hoa với các vị thuốc khác để đảm bảo năng
lực trị liệu của hoa và dự phòng những biến chứng không mong muốn, ví như không
dùng nguyên hoa cùng với cam thảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét