Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Dược tề liệu pháp chữa bất lực


PHÒNG CHỐNG BẤT LỰC BẰNG DƯỢC TỀ LIỆU PHÁP

     Bất lực, hay còn gọi là rối loạn cương dương, là một chứng bệnh đang có xu hướng gia tăng và làm khổ tâm khoảng 300 triệu nam giới trên toàn thế giới (năm 2000), trong đó 30 triệu ở Mỹ, 17,5 triệu ở Tây Âu, 190 triệu ở Đông Nam Á. Ở nước ta, tuy chưa có con số thống kê chính thức nhưng tình hình người mắc bệnh bất lực đến các trung tâm nam học ngày càng nhiều và có chiều hướng trẻ hóa. Để phòng chống căn bệnh này, một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của thầy thuốc và người bệnh là tìm hiểu, nghiên cứu và sử dụng các biện pháp của y học cổ truyền, trong đó có việc xông, xoa, bôi, đắp…thuốc vào rốn, được gọi là Dược tề liệu pháp.

     Phương pháp chữa bệnh độc đáo này có một lịch sử lâu đời, được ghi lại sớm nhất trong y thư kinh điển Nội kinh Tố vấn rồi sau đó được bàn luận và phát triển trong các sách thuốc nổi tiếng khác như Thiên kim yếu phương, Ngoại đài bí yếu…để chữa nhiều mặt bệnh khác nhau, trong đó có rối loạn dương cương, chứng bệnh được đông y gọi là “Dương nuy”. Bài viết này xin được giới thiệu một số phương thang điển hình để bạn đọc tham khảo.

Phương 1 : Phụ tử 6g, xuyên ô 6g, thiên hùng 6g, quế tâm 60g, quế chi 60g, tế tân 60g, can khương 60g, xuyên tiêu 60g, tất cả thái vụn ngâm trong dầu vừng (mùa xuân 5 ngày, mùa hạ 3 ngày, mùa thu 7 ngày, mùa đông 10 ngày), sau đó đun sôi bỏ bã rồi lại đun sôi tiếp, từ từ bỏ hoàng đơn vào, quấy đều thành dạng cao, đựng trong lọ kín dùng dần. Khi dùng, quết cao thuốc lên giấy bản hoặc vải rồi dán vào rốn hoặc đan điền (tương ứng với huyệt Huyết hải, ở thẳng dưới rốn 1,5 tấc). Đây là phương thang được ghi lại trong sách Trương thị y thông, có công dụng ôn thận noãn tỳ, bổ dương cường tráng, dùng để chữa bất lực thuộc thể Thận dương hư suy, ngoài ra còn chữa chứng di tinh, tinh lạnh và muộn con.

Phương 2 : Tiểu hồi hương và bào khương lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, gia thêm một chút muối ăn rồi hòa với một chút sữa người hoặc mật ong hoặc tiết gà thành dạng cao, đắp vào rốn, dùng băng cố định, 5 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng : bổ mệnh môn hỏa, ôn thận trợ dương, làm ấm tỳ vị, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.

Phương 3 : Hành tươi 1 củ, giã nát, đăp vào rốn rồi dùng băng cố định bên ngoài, mỗi ngày sáng và tối thay thuốc một lần. Phương thang này ghi trong sách Tứ xuyên trung y, có công dụng ôn dương tán hàn, lưu thông kinh lạc, chuyên trị liệt dương do hàn tà xâm nhập.

Phương 4 : Phụ tử 1 củ to, khoét lỗ, ngũ vị tử 6g, hoàng kỳ sao 6g, lưu hoàng 6g, xuyên sơn giáp 2 miếng, tất cả sao khô tán bột rồi nhét vào trong củ phụ tử, đem đun với 250 ml rượu trắng bằng lửa nhỏ cho đến khi rượu cạn thì lấy ra nghiền nát thành dạng cao. Trước tiên cho 0,3g xạ hương vào rốn rồi đắp cao thuốc lên trên, dùng băng cố định lại, 3 ngày thay thuốc 1 lần, 10 lần là 1 liệu trình. Phương thang này chép trong sách Quý châu dân gian phương dược tập, có công dụng ôn bổ mệnh môn hỏa, trừ hàn ôn dương, bổ khí thông mạch, hoạt huyết thu liễm, chuyên dùng để chữa liệt dương, thông thường sau 3 lần là có hiệu quả.

Phương 5 : Lưu hoàng 6 tiền (đơn vị đo lường cũ), đinh hương 5 tiền, xạ hương 1 tiền, tất cả tán bột lấy nước tỏi tươi làm hoàn, mỗi viên to bằng hạt đỗ đen, dùng chu sa làm áo,

Phương 6 : Dâm dương hoắc 52g, sà sàng tử 36g, ngô công 15g, băng phiến 9g, tất cả sấy khô tán bột, trộn với nước ép từ hành củ tươi thành dạng cao rồi đắp vào rốn, kế đó dùng ngón tay cái hai bên thay nhau ấn từ từ lên trên, mỗi lần từ 10-20 phút, mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng khi thức giấc và buổi tối trước khi đi ngủ. Công dụng : ôn thận tráng dương, khu phong trừ thấp, chuyên dùng để chữa chứng dương vật không cương hoặc có cương nhưng không cứng, xuất tinh sớm, hoạt tinh, di mộng tinh…

Phương 7 : Mộc miết tử, tế tân, xuyên ô, thảo ô, phụ tử chế, thiềm thừ, hùng hoàng, sà sàng tử, nhục thung dung, kỷ tử, địa cốt bì, mạch môn, mộc hương, sinh ddianj, tỏa dương, ba kích, phòng phong, nhân sâm, bạch linh, đinh hương, quế nhục, một dược, đậu khấu mỗi thứ 5g, cẩu cốt 100g, hải mã 60g, long cốt 30g, thạch yến tử 30g, vân mẫu thạch 30g. Tất cả đem sắc kỹ, bỏ bã rồi cô thành dạng cao đặc, khi dùng phết cao thuốc lên giấy bản hoặc vải mỏng dán vào rốn. Phương thang này được ghi trong sách Nhiếp sinh bí phương yếu quyết, chương Phòng trung kỳ thư,  có công dụng làm ấm hạ nguyên hư lãnh, khiến cho dương vật cương cứng.

Phương 8 : Đại phong tử, lưu hoàng, dương khởi thạch, sà sàng tử, hương phụ, phỉ tử mỗi thứ 3g, dế mèn 1 con, xạ hương 3g. Tất cả sấy khô tán bột, luyện với mật ong làm hoàn, mỗi ngày dùng 1 viên đặt vào rốn, cố định bằng băng dính. Phương thang này cũng được ghi trong sách Nhiếp sinh bí phương yếu quyết, chuyên dùng để chữa dương nuy, làm cho tăng độ cương cứng của dương vật và phòng chống xuất tinh sớm.

Phương 9 : Lưu hoàng 30g, bạch tật lê 30g, tế tân 30g, ngô thù du 15g, xuyên sơn giáp 10g, , dương khởi thạch 30g, băng phiến 5g, tất cả sấy khô tán bột, mỗi lần lấy bột thuốc 3g hòa với nước cơm thành dạng cao rồi đắp lên rốn, cố định bằng băng dính, hai ngày thay thuốc một lần. Thông thường sau 15 ngày là có chuyển biến, sau 2 tháng là có hiệu quả tốt.

Phương 10 : Lưu hoàng , bạch thược, bạch phàn, cam thảo và phỉ tử lượng bằng nhau, tất cả sấy khô tán bột, hòa với rượu trắng thành dạng cao rồi đắp lên rốn, dùng băng cố định bên ngoài, mỗi buổi sáng khi thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ dùng túi kín đựng nước nóng chườm lên bên trên rốn trong 20-30 phút, 15 ngày là một liệu trình. Công dụng : ôn bổ mệnh môn hỏa, cường thận tráng dương và thu liễm, chuên dùng để chữa chứng liệt dương.

Phương 11 : Ngô thù du 5g, tế tân 1g, quế chi 1g, tất cả sấy khô tán bột. Trước tiên, trải một mảnh gạc mỏng lên trên rốn rồi đổ bột thuốc, lại trải tiếp một lớp gạc nữa rồi dùng băng cố định bên ngoài. Mỗi tối trước khi đi ngủ dùng ngón tay cái day ấn rốn trong 5- 10 phút, 2 hoặc 3 ngày thay thuốc một lần. Công dụng : tán hàn thông lạc, cường dương cố tinh, chuyên dùng để chữa liệt dương, thông thường sau 15 ngày sẽ có hiệu quả rõ rệt.

                                                                                   Hoàng Khánh Toàn

     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét