Y HỌC CỔ TRUYỀN TRỊ LIỆU TIỂU ĐƯỜNG NHƯ THẾ NÀO ?
Trong mươi năm
gần đây, cùng với các bệnh lý chuyển hoá như rối loạn lipid máu, gút..., tiểu đường
và các biến chứng của nó đã và đang có xu hướng gia tăng và thực sự đã trở thành
mối lo ngại rất đáng báo động trên phạm vi toàn thế giới cùng với các bệnh lý
tim mạch và ung thư. Cho đến nay, mặc dù các chế phẩm tây y trị liệu tiểu đường
là hết sức phong phú và hữu hiệu ở các mức độ khác nhau, nhưng người ta vẫn có
xu hướng đi sâu tìm hiểu và khảo sát các biện pháp trị liệu của y học cổ truyền
có khả năng điều chỉnh đường máu nhằm tìm ra một phương thức trị liệu có tính
hiệu quả và an toàn cao nhất. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, cách nhìn nhận
và sử dụng đông y trị liệu tiểu đường vẫn còn khá nhiều bất cập, thậm chí đã xuất
hiện xu hướng có tính cực đoan khiến cho người bệnh cảm thấy hoang mang, không
biết lựa chọn phương thức nào cho phải đạo. Trong bài viết này, chúng tôi xin được
giới thiệu những nét cơ bản nhất về đông y trị liệu tiểu đường để độc giả có thể
tham khảo và định hướng.
@ Khái niệm
Trong y học cổ
truyền không có bệnh danh “tiểu đường”, nhưng đối chiếu với các chứng trạng biểu
hiện trên lâm sàng căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát”, một chứng
bệnh đã được nói đến rất sớm trong các y thư cổ như Hoàng đế nội kinh, Linh khu, Thiên kim yếu phương... Biểu hiện chủ
yếu của chứng bệnh này được người xưa gọi là “tam đa, nhất thiểu”, nghĩa là ăn
nhiều, uống nhiều, đái nhiều và sút cân nhanh. Về trị liệu, cổ nhân thường lấy
biện chứng “tam tiêu” làm cơ sở, nghĩa là phân chia thành 3 thể : Thượng tiêu (phần trên cơ thể, gồm tâm và
phế), Trung tiêu (phần giữa cơ thể, gồm
tỳ và vị) và Hạ tiêu (phần dưới của cơ
thể, gồm can, thận, tiểu trường, đại trường và bàng quang). Nhưng hiện nay loại
này thường chỉ tương ứng với tiểu đường típ I với đặc điểm lâm sàng khởi phát đột
ngột, thường gặp ở người dưới 40 tuổi và trẻ em. Còn tiểu đường típ II đa số gặp
ở người trên 40 tuổi, có đặc điểm tiến triển âm thầm không bộc lộ rõ các triệu chứng
lâm sàng, trên 70% các trường hợp phát hiện là nhờ xét nghiệm máu trong các kỳ
khám sức khoẻ định kỳ, bệnh nhân đến với thầy thuốc chủ yếu vì các biến chứng về
tim mạch, thần kinh, mắt và nhiễm khuẩn do tiểu dường gây ra. Bởi vậy, phương
thức phân loại và biện chứng theo "tam tiêu" truyền thống tỏ ra chưa
hoàn toàn thích hợp với thực tiễn lâm sàng hiện đại.
@ Nguyên nhân và cơ
chế sinh bệnh
Theo cổ nhân,
tiêu khát phát sinh chủ yếu do các nguyên nhân như bẩm thụ tiên thiên bất túc
(di truyền), ẩm thực bất điều (ăn uống bất hợp lý), tình chí thất điều (yếu tố
tâm thần kinh), ngoại cảm lục dâm (yếu tố môi trường, nhiễm trùng...), cửu phục
đan dược (dùng thuốc bất hợp lý), trường kỳ ẩm tửu, phòng lao bất điều (tửu sắc
và lao lực quá độ)...Các nguyên nhân này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm
rối loạn công năng các tạng phủ, trong đó đặc biệt là ba tạng tỳ, phế và thận,
từ đó mà phát sinh tiêu khát. Ví như, ăn uống không hợp lý, dùng quá nhiều đồ ăn
thức uống béo bổ và khó tiêu khiến cho tỳ vị bị tổn thương, mất khả năng chuyển
vận và tiêu hoá thức ăn gây nên tích trệ, lâu ngày hoá nhiệt làm tổn hao âm dịch
mà phát sinh thành bệnh. Hoặc như, căng thẳng thần kinh kéo dài làm cho tạng
can mất khả năng sơ tiết, can khí uất kết mà hoá hoả, hoả phía trên gây tổn thương
âm dịch của phế và vị, phía dưới gây tổn thương âm dịch của thận, từ đó mà phát
sinh tiêu khát...
@ Nguyên tắc trị liệu
Cũng như các bệnh
lý nội khoa mạn tính khác, đối với chứng tiêu khát, nguyên tắc trị liệu của y học
cổ truyền là :
- Điều trị toàn diện, nguyên tắc này xuất
phát từ quan điểm chỉnh thể, coi nhân thể là một khối thống nhất. Toàn diện nghĩa
là : (1) Trong trị liệu phải luôn luôn chú ý xem xét và điều chỉnh công năng tạng
phủ bị bệnh trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại với tất cả các tạng
phủ khác ; (2) Sử dụng tổng hợp các biện pháp : dùng
thuốc và không dùng thuốc, thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện khí công dưỡng
sinh...
- Biện chứng luận trị, nghĩa là phải căn
cứ vào bệnh cảnh lâm sàng cụ thể, loại hình và giai đoạn bệnh, đặc điểm về thể
chất, giới tính, tuổi tác...của từng người bệnh mà lựa chọn thuốc và các biện
pháp trị liệu cho phù hợp. Đây là nguyên tắc trị liệu có tính đặc trưng của y học
cổ truyền. Tuy nhiên, hiện nay do sự tác động của đời sống công nghiệp, người
ta có xu hướng “biện bệnh luận trị” hơn là “biện chứng luận trị”.
- Chú ý vận dụng các liệu pháp có tính
tự nhiên như dược thiện (món ăn - bài thuốc), trà dược, xoa bóp, bấm huyệt, khí
công, dưỡng sinh...Nguyên tắc này dựa trên quan điểm “thiên nhân hợp nhất” của
y học cổ truyền : con người và tự nhiên là thống nhất, con người khởi nguồn từ
tự nhiên, dựa vào tự nhiên, phát triển cùng với tự nhiên. Con người là sản phẩm,
là một bộ phận cấu thành của tự nhiên, mọi biến đổi sinh lý và bệnh lý của nhân
thể luôn luôn chịu sự ảnh hưởng và chi phối của tự nhiên.
@ Phương pháp cụ thể
Có thể chia là
hai biện pháp lớn là dùng thuốc và không dùng thuốc
* Dùng thuốc : thường
theo ba phương thức biện chứng luận trị, chuyên bệnh chuyên phương và vận dụng
kinh nghiệm dân gian
- Biện chứng luận trị : Tuỳ theo từng
thể bệnh mà lựa chọn các vị thuốc và bài thuốc cho phù hợp. Ví như : với thể Táo nhiệt thương phế biểu hiện bằng các
triệu chứng phiền khát, uống nhiều, ăn nhiều, họng khô miệng táo, tiểu tiện nhiều
lần, đại tiện táo, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô...thì chọn dùng bài thuốc Tăng dịch thừa khí thang gia giảm ; với
thể Thận âm khuy hư biểu hiện bằng các
triệu chứng người gầy, tiểu tiện nhiều lần, đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc,
hay có cảm giác sốt nóng về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, đổ mồ hôi trộm,
họng khô miệng khát, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ không có rêu...thì chọn dùng bài
thuốc Tả quy hoàn gia giảm, với thể Tỳ hư đàm trệ biểu hiện bằng các triệu
chứng người béo trệ, hay chướng bụng, ăn kém, chậm tiêu, đầu nặng, tay chân rã
rời, lưỡi bệu có vết hằn răng...thì chọn dùng bài thuốc Hoắc phác hạ linh thang gia giảm...
- Chuyên bệnh chuyên phương : Là phương
pháp sử dụng một bài thuốc cố định dùng chung cho tất cả các thể bệnh, cũng có
thể gia giảm nhưng số lượng không nhiều. Ví như : ở Trung Quốc, các nhà y học cổ
truyền đã nghiên cứu và xây dựng hàng chục phương thuốc trị liệu tiểu đường khác
nhau như Tiêu khát linh, Thuỉy điệt tam
hoàng thang, Giáng đường tuỵ phúc khang, Phức phương tam tiêu thang, Ích khí tư
thận thang, Sinh tân ngọc dịch cao, Giáng đường kháng niêm phương, Bối qua ẩm, Ích
nhân đường, Giáng đường ẩm II...Thực chất, đây là phương pháp trị liệu theo
phương thức “biện bệnh luận trị”
- Vận dụng kinh nghiệm dân gian : Đây là
phương pháp trị liệu thường rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ tiền và có hiệu
quả ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm trị liệu tiểu đường trong dân gian là rất
phong phú nhưng chưa được chú ý đúng mức và khai thác hết. Ví như : dùng lá ổi,
rễ cây dâm bụt, rễ cây dâu tằm, mướp đắng, thiên hoa phấn, củ mài, hoàng liên...sắc
uống ; dùng dưa hấu, cà rốt, lê, dưa chuột, bí đao, mướp đắng...ép lấy nước uông
hàng ngày ; dùng con gián hoặc cương tàm sao vàng tán bột uống...
* Không dùng thuốc : Là sử dụng
các liệu pháp tự nhiên như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, dược thiện, trà dược,
cháo thuốc, dán thuốc vào huyệt, tắm thuốc, tập luyện khí công dưỡng sinh...Ví
như, chế độ ăn nên trọng dụng các loại thực phẩm như râu ngô, các chế phẩm của đậu
tương và đậu đen, xích tiểu đậu, bạch biển đậu, mướp đắng, bí đỏ, bí đao, dưa hấu,
tỏi, hoài sơn, hành tây, rau cần, cà rốt, củ cải, măng, hẹ, ngân nhĩ, hải tảo,
tuỵ lợn, cá quả, cá trạch, hải sâm...; thường xuyên dùng các loại trà dược như
khổ qua trà, nam qua phấn giáng đường trà, ngọc mễ tu trà, la hán quả trà, mạch
môn hoàng liên trà, hoàng tinh ngọc trúc trà, mạch đông sinh địa tiêu khát trà,
cát phấn ngọc tuyền trà, dương sâm hoa phấn tiêu khát trà...; có thể dùng các
loại cháo thuốc như cháo tuỵ lợn, cháo khổ qua, cháo nhị phấn trư đỗ, cháo địa
cốt bì ngọc mễ tu, cháo đông qua dĩ nhân...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét