NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý KHI SẮC THUỐC ĐÔNG Y
Trong đông y, cách sắc thuốc và hiệu quả điều
trị của dược liệu có mối quan hệ rất mật thiết. Từ Linh Thai, y gia trứ danh đời
Thanh (Trung Quốc) đã nói : “Tiễn dược chi pháp, tối nghi thâm giảng, dược chi
hiệu bất hiệu, toàn tại hồ thử”. Trên thực tế, cách sắc thuốc hiện nay không còn
được tuân thủ nghiêm ngặt theo những yêu cầu khắt khe của dược lý học cổ truyền.
Nhưng, những vấn đề được nêu dưới đây chắc chắn vẫn còn giữ nguyên giá trị của
nó.
1.
Dùng nồi gì để sắc thuốc ?
Tốt nhất vẫn là dung nồi đất, cũng có thể dùng
nồi sắt tráng men để thay thế nhưng tuyệt đối không được dùng nồi chế từ các
kim loại như sắt, đồng, gang…Bởi vì nhiều loại thuốc đông y khi tiếp xúc với
kim loại hoạt chất sẽ bị kết tủa, độ hòa tan giảm thấp, thậm chí có thể biến chất
gây nên những tác dụng phụ làm ảnh hưởng đến hiệu quả trị liệu. Hiện nay, nhiều
cơ sở đã sử dụng hệ thống sắc thuốc tự động đóng túi rất nhanh chóng và tiện lợi
cho người bệnh, nhưng quả thực phương thức này mang đậm tính chất công nghiệp mà
đã bỏ đi khá nhiều các thao tác cần thiết mang tính cổ truyền làm ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng thuốc và hiệu quả trị liệu.
2.
Dùng nước gì để sắc thuốc và liều lượng ra sao ?
Về nguyên tắc, phỉa dung nước sạch như nước
máy, nước giếng, nước mưa hoặc nước cất. Trước hết, hãy ngâm thuốc vào nước
trong khoảng 30 phút để làm mềm dược liệu, giúp cho hoạt chất được hòa tan một
phần. Khá nhiều hoạt chất có trong dược liệu là các protein hoặc tinh bột, nếu
không được ngâm với nước lạnh gặp nhiệt độ cao đột ngột có thể bị đông cứng hoặc
biến dạng làm ảnh hưởng đến việc chiết xuất các thành phần hữu hiệu khác. Lượng
nước đổ vào chỉ cần đủ để ngập hết dược liệu, không cần quá nhiều và cũng không
nên quá ít. Không nên cứ phải đổ đủ ba bát nước một cách cứng nhắc và nếu dung
bát để đong thì mỗi bát cũng phải đạt 200 ml nước.
3.
Điều chỉnh lửa như thế nào và thời gian sắc bao lâu thì đủ ?
Đây là 2 vấn đề khá quan trọng. Thông thường
khi chưa sôi thì dung “vũ hỏa” (lửa to), khi đã sôi thì dung “văn hỏa” (lửa nhỏ),
trước khi chắt thuốc nên tắt lửa, để om khoảng 10 phút. Trong khi sắc thuốc phải
đậy nắp ấm để giữ các thành phần dễ bay hơi khỏi thoát ra ngoài. Thười gian sắc
dài hay ngắn phải tùy theo công dụng của thuốc, ví như thuốc phát hãn (làm ra mồ
hôi), thuốc thanh nhiệt cần sắc nhanh, thuốc tư bổ phải sắc lửa nhỏ và kéo dài…Một
số dược liệu có độc như ô đầu, phụ tử…cần phải sắc lâu hơn một chút để làm giảm
độc tính.
4.
Những vị thuốc nào cần sắc trước ?
Trong đơn thuốc đông y có một số vị thường
được ghi phía sau hai chữ “sắc trước”. Điều này có nghĩa là các vị thuốc này cần
được sắc trước đơn độc trong khoảng 15 phút, sau đó mới cho các vị thuốc khác
trong đơn thuốc vào sắc cùng. Các vị thuốc này chủ yếu gồm hai loại : thứ nhất
là các dược vật khó hòa tan, khó chiết xuất hoạt chất như các loại khoáng thạch,
vỏ trai, ốc, hến…, xương động vật, rễ cây dạng khối cứng. Ví như, mẫu lệ, long
cốt, long xỉ, sinh thạch cao, hàn thủy thạch, từ thạch, linh dương giác, thủy
ngưu giác, phụ tử…Loại này cần phải sắc trong thời gian dài thích hợp thì mới đạt
hiệu quả chiết xuất, phát huy tác dụng trị liệu cao nhất. Ví như, phụ tử sắc càng
lâu thì hàm lượng methylcoclaurine trong dịch chiết càng cao, hiệu quả tăng cường
sức co bóp cơ tim càng lớn. Thứ hai là các dược vật có độc tính cao như bán hạ,
sinh nam tinh…, nếu sắc trong thời gian ngắn thì dễ có các phản ứng kích thích ở
hầu họng, thậm chí có thể mất tiếng.
5.
Những vị thuốc nào cần sắc sau ?
“Sắc sau” là để chỉ một số vị thuốc cần
cho vào sắc khi các vị thuốc khác sắc gần được, đun thêm 4-5 phút nữa là có thể
chắt ra. Đại đa số các loại này là các vị thuốc có khí vị phương hương như mộc
hương, đinh hương, trầm hương, hương nhu, bạc hà, sa nhân, bạch đậu khấu…Thành
phần hữu hiệu của các vị thuốc này là các chất dễ bay hơi, không chịu nhiệt, nếu
sắc quá lâu dễ bị phát tán hoặc biến chất làm ảnh hưởng đến hiệu quả trị liệu.
Ví như, các chất gây tả hạ có trong sinh đại hoàng, phan tả diệp ; các chất có
tác dụng hạ áp có trong câu đằng, ngô đồng ; các chất có tác dụng kháng khuẩn có
trong đại kích…đều không chịu được nhiệt lâu. Ngoài ra, cùng một vị thuốc nhưng
thời gian sắc khác nhau thì công hiệu cũng không giống nhau. Ví như, nếu sắc
sau thì đại hoàng có công dụng tả hạ thông tiện, nếu sắc trước và kéo dài thì lại
các tác dụng sáp tràng chỉ tả. Bởi thế, thời gian sắc đối với từng vị thuốc là
một vấn đề hết sức quan trọng.
6.
Những vị thuốc nào cần phải gói khi sắc ?
Đó là các vị thuốc dễ lắng đọng dưới đáy nồi
gây cháy và dễ làm đục dịch thuốc như xích thạch chi, táo tâm thổ, tuyền phúc
hoa, xa tiền tử, bồ hoàng thán…Có hai cách gói : một là gói các vị thuốc này vào
túi vải và sắc cùng các vị thuốc khác, hai là gói và sắc các vị thuốc này trước,
sau đó bỏ bã lấy nước sắc các vị thuốc khác. Ngoài ra, một số vị thuốc có nhiều
lông dễ gây ho theo kinh nghiệm dân gian như tỳ bà diệp cũng nên gói riêng khi
sắc.
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét