ĐÔNG Y VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOÀ HỢP TÌNH DỤC
@ Xuất tinh sớm
Trong y học cổ
truyền, xuất tinh sớm thuộc phạm vi các chứng “tảo tiết” (tảo là sớm, tiết là xuất tiết tinh dịch), “kê tinh” (kê là gà, kê tinh là xuất
tinh nhanh như gà)...được nói đến rất sớm trong các y thư cổ như Tố nữ kinh, Biện chứng lục, Chẩm thị tôn
sinh thư, Bí bản chủng tử kim đan, Thiên hạ chí đạo đàn, Thập vấn…Nguyên nhân
của bệnh chủ yếu là do : (1) Tiên thiên bất
túc, nghĩa là quá trình bẩm thụ tinh cha huyết mẹ không đầy đủ, từ nhỏ thận
khí vốn đã hư yếu, khả năng cố tinh không tốt ; (2) Phòng sự bất tiết, nghĩa là sinh hoạt tình dục không điêù độ, phần
nhiều là thái quá hoặc do thủ dâm quá mức khiến cho thận khí hoặc thận âm bị thương tổn mà ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng kìm giữ tinh dịch ; (3) Tình
chí sở thương, nghĩa là đời sống tinh thần bị rối loạn, hoặc uất ức quá nhiều
mà hại can, hoặc buồn thương lo nghĩ quá dài mà hại tỳ, hoặc sợ hãi quá mức mà
hại thận...tất cả đều khiến cho công năng các tạng phủ hoạt động mất bình thường
mà gây nên bệnh ; (4) Thấp nhiệt lưu chú,
nghĩa là có tình trạng viêm nhiễm đường tiết niệu sinh dục tạo nên phản xạ kích thích quá mức dễ gây xuất tiết
tinh dịch, đông y gọi là “nhiễu động tinh phòng”.
Để khắc phục tình
trạng này, trên quan điểm “chỉnh thể thi trị”, y học cổ truyền khuyên nên sử dụng
biện pháp trị liệu mang tính tổng hợp nhằm mục đích đạt được kết quả cơ bản và
vững chắc nhất, không quá nhấn mạnh các phương thức điều trị có tính chất tạm
thời. Cụ thể bao gồm :
- Thay đổi tập
quán sinh hoạt, loại bỏ những thói quen xấu như tật thủ dâm, phòng sự quá độ, tạo
lập môi trường tiện nghi và thuận lợi cho sinh hoạt tình cảm vợ chồng.
- Tìm mọi biện
pháp nhằm tạo ra một đời sống tinh thần thoải mái, giàu tình cảm và thông hiểu
lẫn nhau. Hết sức tránh những căng thẳng tâm lý bất lợi. Đặc biệt, người vợ phải
thấu hiểu, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi phối hợp cùng chồng giải
quyết những trục trặc không mong muốn. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng mà cả
Tây y và Đông y đều hết sức chú trọng.
- Ăn uống hợp lý
và có lợi cho việc phòng chống bệnh tật theo quan điểm của dinh dưỡng học cổ
truyền. Trọng dụng những đồ ăn thức uống có tính thanh đạm, giàu chất dinh dưỡng,
có tính ôn ấm và trợ dương như thịt chó, thịt dê, thịt chim sẻ, trứng gà, tinh
hoàn và thận động vật, ngẩu pín, cá ngựa, tôm, đông trùng hạ thảo, rau hẹ...Tránh
những thức ăn có tính kích thích mạnh dễ gây căng thẳng thần kinh như cà phê,
trà đặc, rượu nặng. Nên sử dụng các món ăn - bài thuốc của y học cổ truyền. Ví
dụ : (1) Kim anh tử 30g, phúc bồn tử 30g, kỷ tử 30g, nhục thung dung 50g, thịt
dê 50g. Sắc kim anh tử, phúc bồn tử và kỷ tử lấy nước bỏ bã rồi cho nhục thung
dung đã rửa rượu thái phiến và thịt dê vaò hầm thật nhừ, chế thêm gia vị, chia ăn
vài lần trong ngày. Công dụng : bổ ích can thận, tăng tinh bổ tuỷ ; dùng cho người
bị xuất tinh sớm thể thận hư tinh thiểu. (2) Chim sẻ 3 con, kỷ tử 20g, phúc bồn
tử 20g, thục địa 20g, thỏ ti tử 20g, kim anh tử 20g, ngũ bội tử 10g, ngũ vị tử
20g, gạo tẻ 75g. Các vị thuốc rửa sạch, sắc kỹ lấy nước ; chim sẻ làm thịt bỏ
phủ tạng, tất cả đem nấu với gạo thành cháo, chế thêm gia vị chia ăn vài lần
trong ngày. Công dụng : tráng dương khí, trợ âm huyết, bổ tinh tuỷ, ích can thận.
(3) Thỏ ti tử 30g, kỷ tử 30g, đường đỏ 60g. Tất cả hãm với nước sôi trong bình
kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng : bổ ích thận
tinh, bảo hộ tinh quan ; dùng cho người bị xuất tinh sớm thuộc thể thận khí bất
túc, tinh quan bất tố. (4) Kim anh tử 500g, đẳng sâm 50g, tục đoạn 70g, dâm dương
hoắc 50g, sà sàng tử 50g, rượu trắng 2500 ml. Tất cả đem ngâm kỹ, sau nửa tháng
có thể dùng được, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20 ml.
- Sử dụng thuốc đông
y một cách hợp lý và khôn ngoan, đúng người, đúng bệnh, không tuỳ tiện và cẩu
thả. Tốt nhất là phải được các thầy thuốc chuyên khoa khám xét và cho chỉ định
cụ thể. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì tuy cùng một bệnh danh “tảo
tiết” nhưng lại được phân ra làm nhiều thể bệnh khác nhau như Âm hư hoả vượng, Thận khí bất cố, Tâm tỳ lưỡng
hư, Can kinh thấp nhiệt, Thận dương hư nhược...và tương ứng với mỗi thể lại
phải dùng các vị thuốc và bài thuốc khác nhau. Nếu chỉ định dùng không đúng thì
chẳng những không đem lại hiệu quả gì mà thậm chí còn làm cho tình hình thêm xấu
đi. Ví như, Minh Mạng thang là một phương
thuốc rất tốt cho những người bị suy giảm khả năng tình dục nói chung và chứng
bệnh xuất tinh sớm nói riêng, nhưng bài thuốc này chỉ được dùng cho thể bệnh Thận dương hư nhược biểu hiện bằng các
chứng trạng như sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng đau gối mỏi, dễ vã mồ hôi, hoạt
tinh kèm theo di tinh, tinh dịch lạnh lẽo, đại tiện lỏng loãng, chất lưỡi nhợt,
mạch hư nhược..., còn với thể Âm hư hoả vượng
thì tuyệt đối không được dùng. Vả lại, các dạng thuốc của y học cổ truyền là hết
sức phong phú, ngoài loại sắc uống thông thường còn có rượu thuốc, trà thuốc,
thuốc bôi, thuốc đặt...nên vấn đề tư vấn của chuyên gia là rất cần thiết.
- Hết sức chú trọng
vận dụng các biện pháp trị liệu không dùng thuốc của đông y như châm cứu, day bấm
huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh. Những biện pháp này không những trực tiếp
tác động tới quá trình bệnh lý mà còn giúp cho cơ thể trở nên dẻo dai và khoẻ mạnh.
@ Suy giảm ham muốn và khoái cảm tình dục ở phụ nữ
Trong y học cổ
truyền, tình trạng suy giảm ham muốn và khoái cảm tình dục ở phụ nữ thuộc phạm
vi các chứng “nữ tử âm nuy”, “âm lãnh”..., có liên quan chủ yếu đến
hai tạng phủ quan trọng là Thận và Can. Những nguyên nhân như tà khí xâm nhập
(chủ yếu là hàn tà), bẩm thụ tiên thiên không đầy đủ, lao lực quá độ, sinh hoạt
tình dục thái quá, mắc các bệnh mạn tính, căng thẳng tâm lý nhiều và kéo dài (tình
chí uất kết)...đều dẫn đến tình trạng thận
dương hư nhược hoặc can mất khả năng sơ tiết khiến cho dương khí không đủ
hoặc không đến được để nuôi dưỡng và làm ấm âm bộ nên dẫn đến tình trạng suy giảm
ham muốn và khoái cảm tình dục ở phụ nữ.
Để khắc phục tình
trạng này, theo quan niệm của y học cổ truyền, trước hết vai trò của nam giới
trong việc nắm và thực hành thật tốt nghệ thuật khơi dậy tâm lý “phòng trung”
cho nữ giơí có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sách Tố nữ kinh khuyên : “Trong bất cứ chuyện nào, nguyên lý âm dương cũng
đều phải tương ứng tương sinh. Nữ nhân không được nam nhân kích thích thì làm
sao mà bộc khởi cường lực được”. Nhưng kích thích như thế nào cho có hiệu quả
thì nhất thiết “phải có sự dẫn dắt tuần tự và tự nhiên” trong tâm trạng “tâm bình
khí hoà, tình tự an định” (không quá bồn chồn, vội vã). Hơn nữa, cũng theo Tố nữ kinh, trong chuyện này “chẳng người
nào giống người nào, người mau, người chậm, người nóng, người lạnh...tất nam nhân
phải cần đến sự “tiền hí” tức là khai vị để dẫn khởi”. Điều cốt yếu là nam nhân
phải coi “nữ nhân như ngoã thạch”, ý muốn nói phải nhẹ nhàng nương tay, đừng mạnh
bạo quá mà làm gạch tan ngói vỡ. Nam thuộc dương, nữ thuộc âm, “dương đắc âm
nhi hoá, âm đắc dương nhi dạ”, nữ nhân có “xuân tình bộc phát” hay không phụ
thuộc rất nhiều vào nghệ thuật “khởi tạo phòng trung” của nam nhân.
Nếu liệu pháp
tâm lý tỏ ra ít hoặc không có hiệu quả thì việc tiến hành các biện pháp trị liệu
khác mang tính tổng hợp của y học cổ truyền như dùng thuốc, châm cứu, bấm huyệt,
tập luyện khí công dưỡng sinh và sử dụng các món ăn - bài thuốc là rất cần thiết.
Để thu được hiệu quả cao và phòng tránh được các tác dụng phụ không mong muốn,
việc dùng thuốc uống trong nhất thiết phải được chỉ định bởi các thầy thuốc
chuyên khoa. Bởi lẽ, theo y học cổ truyền, tình trạng bệnh lý này cũng có nhiều
thể loại khác nhau như Khí huyết khuy hư,
Can khí uất kết, Thận tinh hư tổn, Thận dương suy nhược…nên việc lựa chọn các
bài thuốc và vị thuốc cho thật phù hợp là rất quan trọng. Ví như, với thể Can khí uất kết được biểu hiện bằng các
triệu chứng như rất khó chịu khi sinh hoạt tình dục, tâm trạng luôn bức bối, dễ
cáu giận, hay thở dài, ngực bụng có cảm giác đầy tức, kinh nguyệt không đều,
hay đau bụng kinh, trước và sau kỳ kinh bầu vú căng trướng nhiều, âm đạo khô ráp…thì
phải dùng bài thuốc có tác dụng sơ can giải uất như Sài hồ sơ can thang mới có hiệu quả tốt.
Ngay cả khi dùng
các thuốc để ngâm rửa, xoa đắp bên ngoài hoặc các món ăn - bài thuốc cũng rất cần
sự tư vấn của các nhà chuyên môn. Ví như, bài thuốc mà thành phần gồm có : dâm
dương hoắc 30g, xuyên tiêu 10g, đẳng sâm 15g ; cách dùng : sắc kỹ, lấy nước bỏ
bã, ngâm rửa âm hộ chừng 20 phút, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình thì
chỉ thích hợp với thể bệnh Thận dương suy
nhược được biểu hiện bằng các triệu chứng như giảm sút ham muốn tình dục,
tay chân lạnh, sợ lạnh, lưng đau gối mỏi, kinh nguyệt lượng ít sắc nhợt, ăn kém,
đại tiện lỏng nát, mạch trầm vô lực...Hoặc khi dùng các món ăn - bài thuốc (dược
thiện) cũng cần phải căn cứ vào tình trạng bệnh lý cụ thể mà lựa chọn nguyên liệu
và phương thức chế biến cho phù hợp. Tuy nhiên, dạng thuốc này thường có chỉ định
rộng rãi và dễ sử dụng hơn cả. Xin được giới thiệu một số ví dụ như sau :
* Bài 1:
Nhục thung dung 15g, kỷ tử 15g, thịt dê 100g, hành, gừng tươi và gia vị vừa đủ.
Các vị thuốc cho vào túi vải, thịt dê rửa sạch thái ngang thớ to bằng bao diêm,
ướp hành và gừng thái chỉ. Tất cả đem hầm thật nhừ rồi bỏ bã thuốc, chế thêm
gia vị, ăn trong ngày. Công dụng : bồi bổ thận tinh, ôn bổ thận dương, gia tăng
tính dục ; dùng thích hợp với thể Thận
tinh hư tổn, biểu hiện bằng các triệu chứng như giảm sút ham muốn và khoái
cảm tình dục, đầu choáng mắt hoa, hay đổ mồ hôi trộm, tâm trạng phiền táo dễ cáu
giận, lòng bàn tay và bàn chân nóng nhiều, lưng đau gối mỏi, dịch tiết âm đạo ít,
đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ...
* Bài 2
: Đương quy 15g, kỷ tử 20g, hoàng tinh 15g, thịt dê 100g, gừng tươi và gia vị vừa
đủ. Các vị thuốc cho vào túi vải đem hầm với thịt dê đã ướp gừng tươi đập giập,
khi nhừ bỏ bã thuốc, chế đủ gia vị, ăn nóng trong ngày, 7 ngày là một liệu trình,
có thể dùng liên tục 2 - 3 liệu trình. Công dụng : ích khí dưỡng huyết, ôn
trung bổ dương ; chỉ định cho thể Khí huyết
khuy hư, biểu hiện bằng các triệu chứng như giảm sút ham muốn và khoái cảm
tình dục, toàn thân mỏi mệt, sắc mặt và móng tay móng chân nhợt nhạt, hay có cảm
giác khó thở và hồi hộp trống ngực, chán ăn, kinh nguyệt không đều, sắc nhợt lượng
ít, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài...
* Bài 3 :
Hoa hồng 30g, kỷ tử 30g, gạo tẻ 50g. Ba thứ rửa sạch, đem nấu thành cháo, cho
thêm một chút đường trắng, ăn trong ngày. Công dụng : sơ can lý khí, dùng thích
hợp cho thể Can khí uất kết, biểu hiện
bằng các triệu chứng đã nêu ở phần trên.
* Bài 4
: Nhục thung dung 10g, kỷ tử 15, ba kích 10g, đại hồi 5g, thịt chó 100g. Các vị
thuốc cho vào túi vải, đem hầm với thịt chó cho thật nhừ rồi bỏ bã thuốc, chế
thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng : ôn bổ thận dương, rất thích
hợp với thể Thận dương suy nhược, biểu
hiện bằng các triệu chứng đã nêu ở phần trên.
Ngoài ra, việc
tích cực tập luyện khí công dưỡng sinh và thực hành tự day bấm một số huyệt vị
châm cứu cũng rất có ý nghĩa. Ví dụ, với các thể Khí huyết khuy hư, Thận tinh
hư tổn và Thận dương suy nhược, hàng
ngày nên tự day bấm các huyệt như Khí hải (ở giao điểm giữa 3/10 trên với 7/10
dưới đường nối rốn và điểm giữa bờ trên xương mu), Quan nguyên (ở giao điểm giữa
3/5 trên với 2/5 dưới đường nối rốn và điểm giữa bờ trên xương mu), Trung cực (ở
giao điểm giữa 4/5 trên và 1/5 dưới đường nối rốn và điểm giữa bờ trên xương
mu) và Tam âm giao (ở trên mắt cá chân trong 4 khoát ngón tay, ngay sau bờ
trong xương chày).
@ Tình trạng khô âm đạo
Đây thực chất
là hiện tượng bất thường về tiết chất nhờn ở phụ nữ. Khi nữ nhân không tiết chất
nhờn ở âm đạo cũng giống như nam nhân không cương cứng dương vật. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng trước hết là do người phụ nữ ít nhiều không
có cảm hứng với bạn tình hoặc hoàn cảnh xung quanh thiếu thuận lợi. Sự ham muốn
và khoái cảm tình dục suy giảm thì tất yếu tình trạng bài tiết chất nhờn ở âm đạo
cũng bị rối loạn. Một số phụ nữ vì sợ đau, sợ có thai, bị tổn thương, không được
tôn trọng mà lượng chất nhờn tiết ra bị suy giảm. Người phụ nữ vào thời kỳ mãn
kinh nếu không được điều trị nội tiết thay thế hay những người bị viêm âm đạo,
bị tổn thương tuyến tiết nhờn quan trọng (tuyến Bartholin) do nhiều nguyên nhân
khác nhau cũng dẫn đến tình trạng khô rát âm đạo. Hậu quả cuối cùng gây ảnh hưởng
lớn đến chất lượng sinh hoạt tình dục, giao hợp khó khăn do đau, do giảm sút
ham muốn và khoái cảm.
Trong y học cổ
truyền, hiện tượng khô âm đạo được gọi là chứng "Âm khô" hoặc "Âm đạo can táo", có liên quan mật
thiết với sự rối loạn công năng của ba tạng là Can, Thận và Tỳ, khiến cho âm đạo
không được thận tinh, khí huyết và tân dịch nuôi dưỡng đầy đủ nên kém nhu nhuận
mà phát sinh thành bệnh. Về trị liệu, ngoài việc chú trọng tạo ra một đời sống
tình cảm vợ chồng hòa hợp mà cổ nhân gọi là "tâm bình khí hòa" thì người
phụ nữ cần phải dùng thêm thuốc theo quan điểm “biện chứng luận trị”, nghĩa là
phải căn cứ vào các chứng trạng hiện có mà lựa chọn bài thuốc và vị thuốc cho
phù hợp. Cụ thể :
* Thể Thận
âm bất túc : âm đạo khô khan, khi giao hợp đau đớn khó chịu, tâm trạng
buồn phiền dễ cáu giận, đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, lòng bàn tay và bàn
chân nóng, miệng khô họng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, mạch
tế sác. Nên chọn dùng bài thuốc Bổ thiên đại
tạo hoàn gia giảm : đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 10g, cao quy bản
12g, lộc giác giao 12g, sơn thù 10g, thục địa 15g, kỷ tử 15g, a giao 10g, nữ
trinh tử 15g, tang thầm 30g, nhục thung dung 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
* Thể Thận
dương hư nhược : lãnh cảm, khi giao hợp âm đạo khô rát, giảm sút ham muốn
và khoái cảm tình dục, sợ lạnh, tứ chi lạnh, đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi,
đại tiện lỏng nát, chất lưỡi nhợt, mạch trầm trì vô lực. Nên lựa chọn bài thuốc
Noãn thận trợ hoả thang gia giảm : đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 10g, bạch
truật 15g, lộc giác giao 10g, cao quy bản 10g, ba kích 10g, sa tiền tử 15g, nhục
thung dung 12g, tiên linh tỳ 10g, hoài sơn 15g, khiếm thực 12g, phúc bồn tử
12g, phụ tử chế 6g, kỷ tử 15g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
* Thể Khí
huyết bất túc : giảm hoặc mất ham muốn và khoái cảm tình dục, khi giao
hợp âm đạo khô rát, toàn thân mệt mỏi, sắc mặt trắng nhợt hoặc vàng úa, có cảm
giác khó thở và hồi hộp trống ngực, dễ vã mồ hôi, chán ăn, đại tiện lỏng nát,
miệng nhạt, chất lưỡi nhợt, mạch trầm vô lực. Nên chọn dùng bài thuốc Bát trân thang gia giảm : đẳng sâm 20g,
hoàng kỳ 12g, bạch truật 10g, bạch linh 10g, đương quy 10g, xuyên khung 6g,
sinh địa 15g, thục địa 15g, tiên linh tỳ 10g, ba kích 10g, thỏ ty tử 10g, nhục
thung dung 10g, a giao 10g, lộc giác phấn 1g, cam thảo 6g, sắc uống mỗi ngày 1
thang.
* Thể Can
uất khí trệ : âm đạo khô rát, giao hợp đau, dễ cáu giận, đầu choáng mắt
hoa, ngực bụng đầy tức, hay thở dài, kinh nguyệt không đều, thống kinh, miệng đắng,
mạch huyền sác. Nên chọn dùng bài thuốc Sài
hồ sơ can tán gia giảm : sài hồ 10g, bạch thược 12g, đương quy 10g, chỉ xác
10g, xuyên luyện tử 10g, thông thảo 3g, xuyên sơn giáp 6g, quất diệp 10g, vương
bất lưu hành 5g, thiên hoa phấn 12g, nhục thung dung 15g, cam thảo 10g, sắc uống
mỗi ngày 1 thang.
Để tiện sử dụng,
cũng có thể dùng một đơn thuốc chung làm cơ bản rồi tiến hành gia giảm tùy theo
bệnh trạng của mỗi người. Ví dụ : (1) Sinh địa 30g, mạch môn 15g, huyền sâm
12g, tri mẫu 10g và sa sâm 20g, sắc uống ; (2) Sinh địa 30g, thục địa 30g, kỷ tử
10g, mạch môn 10g, sa sâm 10g, sơn thù 10g, đương quy 10g, đan sâm 20g, bạch
hoa xà thiệt thảo 20g, bán chi liên 20g, sắc uống ; giao hợp đau gia bạch thược,
xuất huyết gia tam thất, viêm âm đạo gia tri mẫu và hoàng bá, thiếu máu gia bạch
sâm.
Ngoài ra, có
thể kết hợp dùng các món ăn - bài thuốc và ngâm rửa âm bộ bằng dịch thuốc. Ví dụ
: (1) Dùng long nhãn 100g, vừng đen 40g, tang thầm (quả dâu chín) 50g, ngọc trúc
30g, mạch môn 30g, sắc kỹ 3 lần lấy 3 nước rồi hòa lẫn vào nhau, tiếp tục cô đặc
bằng lửa nhỏ, khi được cho thêm mật ong với tỷ lệ 1:1, đun sôi, để thật nguội rồi
đựng vào lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 - 2 thìa với nước ấm.
(2) Dùng hà thủ ô 30g, sinh địa 30g, huyền sâm 30g, thiên môn 30g, bạch tiên bì
30g, sắc kỹ lấy nước bỏ bã rồi đem ngâm rửa âm bộ từ 10 - 15 phút, mỗi ngày 1 lần.
@ Tần suất sinh hoạt tình dục
Tần suất sinh
hoạt tình dục là chỉ số lần giao hợp trong một khoảng thời gian nhất định. Đây
là một vấn đề rất phức tạp và tồn tại nhiều quan điểm khác nhau giữa các nhà tình
dục học. Chỉ số này phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố như tuổi tác, tình trạng sức
khỏe, trình độ nhận thức, nghề nghiệp, niềm tin tôn giáo, điều kiện khí hậu,
truyền thống và đặc tính văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia...và đặc biệt là
sự lựa chọn của các cặp bạn tình. Có những đôi vợ chồng mới cưới một đêm sinh
hoạt mấy lần cũng không bị coi là nhiều, miễn sao sau cái đêm "mây mưa"
đó cả hai người đều cảm thấy thoải mái và khỏe mạnh, không có các hiện tượng như
lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa, tinh thần uể oải...
Nhiều người
cho rằng tần suất quan hệ tình dục của các cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh sản có
thể dao động từ 0 đến 15 - 20 lần/ tuần, bình quân mỗi ngày 1 lần được coi là tần
suất cao, mỗi tháng 1 lần được coi là thấp và tần suất giao hợp tỷ lệ thuận với
tuổi, tuổi càng cao thì trị số càng thấp. Một nghiên cứu khá thú vị trên 100 đàn
ông ở Mỹ trong độ tuổi từ 35 đến 50 cho thấy : đa số người được hỏi nói rằng họ
giao hợp từ 1 đến 4 lần/ tuần, 1/3 giao hợp 1 tuần 1 lần và chỉ có 4% khẳng định họ giao hợp quá 1 tuần 1 lần.
Một nghiên cứu thăm dò khác ở Mỹ trong những năm 50 do Kinsey tiến hành cho thấy
tần suất sinh hoạt tình dục ở những cặp vợ chồng có độ tuổi từ 20 - 30 là 3 lần/
tuần, từ 31 - 40 là 2 lần/ tuần, từ 41 - 50 là 1 - 2 lần/ tuần và từ 51 - 55 là
1 lần/ tuần. Năm 1974, Hite (Mỹ) nhận xét tần suất giao hợp của người Mỹ tăng dần
theo mốc thời gian, nếu như những năm 40 các cặp vợ chồng sinh hoạt trung bình
mỗi tuần là 2 - 3 lần thì đến những năm 70 trị số này là 3 - 4 lần. Trong thập
niên 90, những cặp vợ chồng có độ tuổi từ 20 - 40 nếu lao động thể lực thì tần
suất giao hợp là 3,7 lần/ tuần, nếu lao động trí óc thì trị số này là 2,8 lần/
tuần
Ở phương Đông
xưa, quan điểm của cổ nhân về vấn đề này cũng được ghi chép khá nhiều trong các
sách như Tố nữ kinh, Ngọc phòng bí quyết, Thiên kim phương, Ngự nữ chi pháp,
Tố nữ chi pháp, Dưỡng danh huấn...Ví dụ sách Tố nữ kinh đã viết
:" Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng trẻ già khác
nhau cho nên phải tùy theo khí lực của mình mà giao hợp, không được cưỡng quyết,
cưỡng quyết tất tổn hại đến thân " và cũng đã chỉ rõ : ở tuổi 15 mà khí lực
dồi dào mỗi ngày giao hợp và có thể xuất tinh hai lần, ốm yếu thì mỗi ngày một
lần ; ở tuổi 20 cũng vậy, không nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ thì một ngày
hai lần, không khỏe thì mỗi ngày một lần ; ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày một lần,
người ốm yếu thì hai ngày một lần ; ở tuổi 40 mà khỏe mạnh thì ba ngày một lần,
ốm yếu thì bốn ngày một lần ; ở tuổi 50 mà khỏe mạnh thì năm ngày một lần, ốm yếu
thì mười ngày một lần ; ở tuổi 60 mà khỏe mạnh thì cỡ mười ngày một lần, ốm yếu
thì hai mươi ngày một lần ; ở tuổi 70 mà khỏe mạnh thì mỗi tháng một lần, ốm yếu
thì nên kiêng cữ không nên xuất tinh. Sách Ngọc phòng bí quyết thì cho rằng
: người ở tuổi 20 thường hai ngày giao hợp một lần, người ở tuổi 30 thường ba
ngày giao hợp một lần, người ở tuổi 40 thường bốn ngày giao hợp một lần, người ở
tuổi 50 thường năm ngàygiao hợp một lần, người ở tuổi 60 thì không bao giờ nên
xuất tinh.
Có thể thấy tần
suất sinh hoạt tình dục của người thời xưa thấp hơn nhiều so với người thời
nay. Một số ý kiến cho rằng : người xưa giải quyết vấn đề theo nguyên lý âm dương,
tất cả do âm dương bảo tồn sinh khí (xúc nhi bất tiết), từ đó mà tần suất giao
hợp thấp ; người thời nay giải quyết vấn đề theo nguyên lý thực tế, vả lại người
thời nay cường tráng và ít bệnh tật hơn người thời xưa nên tần suất giao hợp
nhiều hơn ; một bên thiên về "thể" (cái bản thể, căn cơ của giao hợp),
một bên thiên về "nhục" (cái thực tế, ước muốn của vấn đề giao hợp)
cho nên có sự khác biệt. Trong y thư kinh điển Hoàng đế nội kinh có một đoạn
bàn về vấn đề này rất nên suy ngẫm :" Người thời thượng cổ họ đều biết rõ
phép tắc dưỡng sinh, thể theo quy luật âm dương, điều hòa với thuật số, ăn uống
có điều độ, làm lụng và nghỉ ngơi có chừng mực, không lao lực một cách bừa bãi,
cho nên thể xác và tinh thần đều khỏe mạnh, sống mãi đến lúc trời cho trăm tuổi
mới chết. Còn người ngày nay thì sống không theo kiểu ấy, ham uống rượu như uống
nước, coi sự sai trái như sinh hoạt bình thường, sau khi say rượu lại nhập phòng
bừa bãi, phóng túng về sắc dục, làm kiệt hết tinh khí, hao tổn chân nguyên, không
biết giữ gìn tinh khí cho nghiêm túc, thường sử dụng tinh lực quá mức, chỉ cốt
thỏa lòng một lúc, làm trái ngược với sự vui thú của lẽ dưỡng sinh, cho nên mau
thấy già yếu ".
Hoàng Khánh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét